Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Đức Mậu » Trường ca Sư đoàn (1980) » Chương ba: Quảng Trị năm 1972
Chiếc áo họ mặc chưa một lần thay
Trải lên trời rộng làm mây la đà
Trải vào mặt đất: cây mọc thành hoa
Trải trên mặt giấy: bài ca ra đời
Thành Quảng Trị chưa đầy bốn cây số vuông
Chỗ người lính đánh thù chưa đầy hai thước
Nhưng bạn ơi, làm sao tính được
Số đạn bom trút xuống một con người
Vạt áo mỏng manh tờ lá biếc
Chừng ấy mưa dầm
Chừng ấy đạn bom rơi
Mùa mưa năm Bảy hai
Đất nước nhiều lũ lụt
Mùa mưa năm Bảy hai
Chỗ họ nằm ngập nước
Mưa tưởng muốn sập trời
Mưa sôi từ lòng đất
Vỏ hòm đạn chồng cao
Áo quần ướt vẫn ướt
Nước trộn mùi chuột chết
Hôi hám mùi phân người
Mưa nhiều khát vẫn khát
Áo quần chưa kịp giặt
Ngứa lở bò trên da
Như những loài nấm độc
Dưới lòng cống, hầm hào
Bên bức tường gạch vỡ
Bom rơi rồi mưa đổ
Nước chảy tràn hai vai
Đó những người trẻ trai
Tóc dài không kịp cắt
Ngày mươi trận đánh thù
Ăn cơm mốc, muối ruốc
Ngủ trên hòm đạn, thùng lương khô
Đêm Thành Cổ loạt bom vừa dứt
Giàn pháo từ Cửa Việt giội về
Bức tường đá nhoáng nhoàng vệt chớp
Không gian cuộn lên mảng khói đen sì
Đêm nhập vào màu áo
Áo nhập vào đêm khuya
Thằng Hiến bị chấn thương sọ não
Bàn tay cầm thủ pháo
Vòng băng gối lên công sự mới đào
Phong lùn bị tâm thần cười nói luyên thuyên
Tiểu đội trưởng nhét giẻ vào miệng nó
Lúc này cần bí mật
Cách họ không xa bọn giặc rình mò
Bầy chuột đêm tìm ăn
Vô tư theo kiểu chuột
Tiếng rúc rích lại gần
Vỏ ống bơ, đồ hộp
Chúng gặm cả mũi giày
Năm mươi ngày ngập nước
Chúng gặm vai áo rách
Năm mươi ngày dầm mưa
Chúng gặm lên thịt da
Có vết thương mưng mủ
Người lính nằm đợi thù
Thời gian dồn thuốc nổ
Đêm nhập cùng màu áo
Áo nhập cùng đêm khuya
Họ đã sống những đêm ròng ghê gớm
Ném thủ pháo, chôn mìn, nổ súng
Lửa loé lên ngực áo mưa dầm
Họ nằm bên xác người đã khuất
Nước mắt lưng tròng nối với bước xung phong
Họ lật xác thù
Tìm nước uống, lương khô
Băng đạn cuối cùng lắp vào trận đánh
Màu áo cuối cùng dồn cho trận đánh
Khi mặt trận bốn bề đạn bắn
Không thể quay lưng về phía bạn bè
Nhận về mình mọi sự chở che
Quay lưng là lùi bước
Khi mặt trận bốn bề đạn bắn
Không ai đứng nơi khoảng giữa đội hình
Khoảng giữa là mảnh đất nửa vời
Không mọc được loài cây dũng cảm
Bên phải có giặc
Bên trái bãi mìn
Đằng trước vòng vây
Đằng sau phục kích
Ai hèn nhát sẽ chết trong hèn nhát
Chỉ một con đường tiến thẳng mà thôi
Những người lính nói về lòng dũng cảm
Bằng xác giặc ngổn ngang, khẩu súng đỏ nòng
Bằng màu áo nhuộm mưa dầm, thuốc đạn...
Năm mươi ngày
Mười đợt bổ sung quân
Người còn sống
Chưa một lần thay áo
Người đã khuất
Chưa một lần thay áo
Chiếc áo vùi trong cát đạn cày lên
Màu áo lính bao bọc Cổ Thành
Đủ vá lành vết thương mặt đất
Đủ đắp ấm mùa đông giá buốt
Nếu tôi cầm lành, rách nối liền nhau
Màu áo lính trải ra ngang dọc chiến hào
Từng mảng đêm, mảng ngày chắn đạn
Soi lên áo gặp mặt người toả sáng
Những bạn bè đánh giặc của tôi đây
Năm mươi ngày giữ đất áo chưa thay
Hố đạn, hố bom trải dày mảnh vá
Sắt thép bị lấp vùi
Chiến tranh chìm dưới cỏ
Chiếc áo họ mang nguyên vẹn dáng hình
Chiếc áo họ mang tôi giữ trọn tâm tình
Người đánh trận áo đổi màu từng trải
Tôi nghe rõ ì ầm cơn sấm dội
Đêm mưa dầm vệt chớp cắt ngang vai
Chiếc áo họ mang núi rộng, sông dài
Tôi không thể tính bằng kích thước
Chiếc áo họ mang đất trộn mồ hôi
Tầm vóc mỗi con người
Tôi không thể đo bằng dáng dấp
Vết đạn thù mang bóng đêm giấu mặt
Áo bạn tôi làm minh chứng phơi bày
Chiếc áo mỏng mở ra tấm lịch
Những ngày tháng khốc liệt nhìn tôi
Áo đo được quãng đời trai trẻ
Sư đoàn tôi không giáp sắt, gươm thần
Màu áo lính nhọc nhằn hơn chuyện kể
Gánh trên vai một dải núi sông mình.