Thơ » Việt Nam » Lý » Mãn Giác thiền sư
春去百花落,
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅。
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu.
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân.
Trang trong tổng số 2 trang (18 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi Vanachi ngày 14/03/2005 18:46
Có 3 người thích
Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Gửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 19:04
Có 2 người thích
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Gửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 19:04
Có 1 người thích
Xuân đi trăm thức hoa tàn,
Xuân về lại thấy rộn ràng muôn hoa.
Việc đời chớp mắt thoảng qua,
Thoáng thôi, tóc đã sương pha rối bời.
Chớ hiềm xuân cỗi hoa rơi,
Đêm qua nở một cành mai trước thềm.
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời qua trước mắt
Đầu bạc tóc sương phơi
Đừng bảo xuân tàn hoa tan tác
Đêm qua sân trước nở cành mai
Gửi bởi Túc Mỡ ngày 20/03/2008 03:11
Có 1 người thích
Xuân đi trăm cánh hoa rơi
Xuân về trăm cánh hoa cười hương bay
Việc qua trước mắt ngày ngày
Mới hay già yếu nay mai thu tàn
Phải đâu xuân hết hoa tan
Đêm qua sân trước nở cành hoa mai
Gửi bởi sonca ngày 24/04/2009 18:36
Có 4 người thích
Thời gian với lộ trình vô tận mà sự đổi thay là một thuộc tính bất di bất dịch, sự triển chuyển là cơ sở để có sự phát sinh và cả hoại diệt, sự tăng trưởng sinh sôi cũng đồng thời tàn tạ mỏi mòn. Quy luật là như thế và nền tảng của sự sống cũng như vậy. Bài thơ không còn dừng lại ở dấu ấn xưa nay của thi ca là ca ngợi miêu tả thuần tuý một vẻ đẹp hay một cảm xúc bay bổng, đôi cánh cảm nhận mang màu sắc trí tuệ đã nâng lên những giá trị mang tính muôn thuở, một thế giới quan và hơn thế nữa_nhân sinh quan sống động.
Xuân đi trăm hoa rụng.Một mệnh đề tưởng bình thường, chẳng có gì cao sâu, nhưng mấy ai cảm nhận và chấp nhận được.Ta vẫn đau lòng khi ai đó mất đi, vẫn hụt hẫng vì một sớm chia lìa hay một chiều tang tóc, ta biết sự đến đi là tất nhiên nhưng vẫn mong cho”thời gian dừng lại” hay “tuổi thơ quay về. Ta vô tình tự mâu thuẫn chí ít là với những hiểu biết cơ bản nhất của chính mình. Ở điểm này, câu thơ đã có giá trị cảnh tỉnh sâu sắc.
Xuân đến trăm hoa nở.Đây chính là sự tất nhiên mang tính vĩnh hằng. Vốn dĩ xưa nay con người chỉ muốn và mãi muốn thụ hưởng và chấp nhận những gì quy luật mang lại, hợp với chí hướng của mình, do đó mà có tâm lý vui khi Xuân về hoa nở, buồn khi Đông đến hoang liêu. Đâu biết rằng Đông chính là nền tảng để một ngày Xuân bừng dậy tinh khôi hào nhoáng. Không có đêm, làm gì có ngày, không có Đông làm gì có mùa Xuân, hiểu cả về mặt sự đối chiếu làm nổi bật và tính triết lý nền tảng.
Trước mắt sự qua mãiQuy luật của trời đất vốn mang tính lạnh lùng và công bằng đến tuyệt đối. Khổng Lão Trang có quan điểm:
Trên đầu già đến rồi.
Thiên trường địa cửu hữu thời tậnBất nhân ở đây chính là không thiên vị, nhân nhượng bất cứ ai, bất cứ điều gì.Đó là quy luật tự nhiên.
....
Thiên địa bất nhân...
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hếtViệc vẫn trôi qua đều đều, người cũng tuần tự già đi. Già bởi đã trải qua thời trai trẻ, và trẻ rồi cũng sẽ già, vết thời gian in đậm trên thân xác mỗi sinh linh, ta không thể chuyển dời, duy tâm ta thì có thể. Ta hiểu được cuộc đời, sống chung với sanh, già, bệnh, chết vô tư như một dòng triển chuyển tất nhiên, ta cứ lạc quan khi tuổi già gõ cửa, có thể làm được quá đi chứ!
Một ván cờ thua ngả bóng chiều
(Vũ Hoàng Chương)
Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hếtCon người chỉ nắm bắt hiện tượng đang diễn ra, và rồi cố chấp vào những ảnh hoá đó bằng tâm cứng đọng phi biện chứng.Sự cố chấp này chi phối cả thế giới tư duy và màu sắc cảm nhận của chủ thể.
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Đêm qua sân trước một nhành mai.Hãy thoát ly sự cố chấp đi, anh sẽ nhìn rõ hơn sự mầu nhiệm của cuộc sống. Cành mai hôm nào, nay đã không còn và anh sẽ bảo chẳng có mai. Thiền sư không nói về cành mai cụ thể trong một thời điểm cụ thể đó, Ngài đang nói về cành mai BẤT DIỆT, cành mai bản thể (bản chất, nền tảng). Đây có thể gọi là phần THỊ(chỉ rõ)so với phần KHAI ở trên.
Gửi bởi Trí Bửu ngày 23/02/2010 20:37
Có 2 người thích
Về thời nhà Lí (1009 - 1225), Thăng Long trở thành kinh đô nước Đại Việt. Sau chiến thắng sông Cầu - Như Nguyệt (1076), nền độc lập của Tổ quốc ta được củng cố, ý thức dân tộc phát triển mạnh mẽ. Việc học hành được mở mang, Kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển khá phồn thịnh. Đạo Phật trở thành quốc giáo. Việc xây chùa, đúc chuông, tạc tượng, in kinh Phật diễn ra sôi nổi khắp nơi. Nhiều vị Thiền sư được triều đình trọng vọng. Họ là những con người lỗi lạc, đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách.
Trong số đó, Mãn Giác Thiền sư (1052 - 1096) là một vị cao tăng mang tâm hồn thi sĩ tuyệt đẹp. Bài “Có bệnh bảo mọi người” (Cáo tật thị chúng) được vị Thiền sư đọc cho các đệ tử nghe khi ông lâm bệnh trọng, trước lúc qua đời. Vốn là một bài kệ (kinh kệ) hàm chứa triết lí đạo Phật cao sâu, nhưng lại tươi mát, gợi cảm, đầy thi vị. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch thơ:
Xuân qua, trăm hoa rụng,Bài kệ - thơ đã nói lên quy luật của sự sống và thiên nhiên, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ.
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước, một cành mai
(Ngô Tất Tố dịch)
Xuân qua, trăm hoa rụng,Bước đi của mùa xuân “qua... tới”, cũng như trăm hoa “rụng... nở”, một lối nói đầy cảm xúc, làm cho câu kệ vốn khô khan đã trở thành câu thơ đẹp và hay. Qua đó, ta thấy tâm hồn vị Thiền sư quả là đẹp!
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt, việc đi mãi,Bài kệ được khép lại bằng hai câu tuyệt cú, xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi:
Trên đầu, già đến rồi.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,Hai tiếng “mạc vị” (chớ tưởng) như một lời nhắc khẽ, thấm thìa. Câu thơ cấu trúc liên hoàn, tương phản: “hoa rụng hết” và “một cành mai” nở ra. Hình ảnh “nhất chi mai” (một cành mai) là một thi liệu ta thường bắt gặp trong thơ cổ. “Đối ngạn: nhất chi mai”, (Bên suối: một nhành mai) - Hồ Chí Minh... nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao, lộng lẫy của thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa buổi xuân tàn là một hoán dụ nghệ thuật, nhà thơ lấy nó để nói về mình, chỉ về mình, biểu lộ một quan niệm nhân sinh của vị chân tu: vạn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử... nhưng nhà tu hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, ngoài quy luật tự nhiên như cành mai nở hoa buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết! Vậy thì ta (Thiền sư Mãn Giác) đang “có bệnh” là chuyện thường tình, theo quy luật của tự nhiên có gì đáng băn khoăn? “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Truyện Kiều). Ngoài triết lí sâu xa của đạo Phật, được cụ thể hoá và hình tượng hoá qua hình ảnh “nhất chi mai”, câu thơ còn ẩn chứa một ý nghĩa đẹp: nhà sư rất lạc quan yêu đời. Với ông, thì thiên nhiên hữu sắc hữu hương, tràn đầy sức sống, tươi mát trẻ trung, cuộc sống không ngừng vươn lên mạnh mẽ theo dòng chảy thời gian.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước, một cành mai.)
Gửi bởi hang-nga ngày 29/05/2011 23:05
Cám ơn các bạn đã cung cấp những bản dịch rất hay đối với bài kệ này của Thiền Sư Mãn Giác.
Gửi bởi ngluong ngày 13/08/2011 16:31
Có 1 người thích
Bạn nào hiểu tiếng Hán có thể giải thích hộ "nhất chi mai" nghĩa là "một cành mai" hay "cây mai một cành"? Cảm ơn nhiều!
Gửi bởi inspiron ngày 20/08/2011 09:00
Bài kệ Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) của Mãn Giác thiền sư (1052-1096) ra đời vào những năm đầu thế kỉ X thời nhà Lý. Giai đoạn được coi là có tính chất mở đầu đặt nền móng cho văn học trung đại Việt Nam trên ba bình diện: văn tự chữ viết và tư duy nghệ thuật. Thế kỉ X – XIV là giai đoạn đầu tiên của chế độ phong kiến. Những người cầm quyền khi đó vừa dựa vào tôn giáo bản địa vừa tiếp thu ba thứ tôn giáo bên ngoài “Nho-Phật-Lão” để xây dựng nhà nước. Do đó văn học mở ra nhiều phương diện về nội dung tạo được tiếng nói đa dạng và phong phú. Khi đi vào bài kệ có thể thấy không chỉ Phật giáo mà các tôn giáo khác như Nho giáo Lão giáo cũng ảnh hưởng không nhỏ về mặt tư tưởng. Tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” đã cung cấp thế giới quan sự cảm nhận về thế giới; đồng thời chi phối hệ thống hình tượng thể loại và phong cách biểu hiện.Tác giả của Cáo tật thị chúng không viết tên thật là Lý Nguyên mà lấy danh xưng là Mãn Giác thiền sư. Cáo tật thị chúng cũng không phải là một bài thơ đúng nghĩa mặc dù cho đến nay người ta vẫn coi đó là một thi phẩm cổ điển toàn bích. Đó là một bài kệ được làm khi Mãn Giác thiền sư đang mang bệnh sắp rời xa cuộc đời. Nói cách khác đây là một hình thức di ngôn nói lên chứng nghiệm sau cùng của nhà thiền sư về lẽ sống chết của người.Nổi bật trong bài kệ là mối quan hệ giữa mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân đất trời đặc trưng cho tư duy thơ của ý thức hệ Phật giáo đặt trong mối tương quan với Nho giáo và Lão giáo. Với Mãn Giác thiền sư mùa xuân của đất trời có thể kiến tạo mùa xuân đời người. Vì thế hãy nhìn sự vật cũng như những biến đổi của thời cuộc ở trạng thái an nhiên nhất. Điều này phù hợp với quan điểm của văn học trung đại cho rằng: sự vật là bất biến nhân quả.
Xuân khứ bách hoa lạcBốn câu đầu của Cáo tật thị chúng được viết dựa trên cấu trúc đăng đối: Xuân khứ - xuân đáo bách hoa lạc – bách hoa khai: đối cả về ý về thanh điệu và cấu tứ. Hai câu thơ sau tính chất biền ngẫu rõ và chặt chẽ hơn: Quá – lai khiến cho ý “khứ” “đáo” ở trên được lặp lại hai lần xoay vần. Những động từ bình thường ấy đã mang lại cái mang mác vô biên tính tương khắc tương nhập cấu trúc vận hành bất tận của vũ trụ. Đó chính là lý thuyết về Dịch trong Khổng giáo chi phối nhân sinh quan và vũ trụ quan Phương Đông. “Tử viết: “Dư dục vô ngôn” Tử Cống viết: “Tử như bất ngôn tắc tiểu tử hà thuật yên?” Tử viết: “Thiên hà ngôn tai? Tứ thì hành yên; bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai?” (Thiên Dương Hoá – Luận Ngữ)“Khổng Tử nói: Ta không muốn nói gì nữa. Tử Cống nói: Nếu thầy không nói thì bọn đệ tử chúng tôi làm sao thuật lại [cho đời sau] được? Khổng Tử nói: Trời có nói gì đâu? Mà bốn mùa cứ xoay vần; trăm loài cứ sinh hoá. Trời có nói gì đâu”[1]. Trời vừa là tự nhiên xoay vần trong vòng sinh sinh hoá hoá vừa có ý chí. Quan niệm về lẽ thường của Khổng Tử gắn với quan niệm thuyết thiên mệnh. Thiên mệnh trong Nho giáo nhằm chỉ tính chất khách quan mà sức người không thay đổi được. Theo Nguyễn Hiến Lê trong Luận ngữ có 6 chỗ nói về thiên mệnh. Một trong những luận bàn về thiên mệnh thường được nhắc đến của Khổng Tử là: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tự mình theo chính đạo); bốn mươi tuổi không nghi hoặc (biết sự việc nào phải hay trái tốt hay xấu) năm mươi tuổi biết mệnh trời (ngũ thập tri thiên mệnh); sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời; bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý”.
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười)
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tậnVẫn những chữ “xuân” “khứ” “lai” “lạc” “khai” để chỉ dòng chảy sinh hoá nối tiếp nhau đến vô cùng. Con người không thể thoát khỏi dòng chảy ấy. Đó là kết quả của việc tin rằng trong vũ trụ có một luật biến hoá nào đó có thể tìm hiểu được với một thái độ thuần triết. Như vậy với triết lý Khổng giáo trời có ý chí lại vừa là cái lí vô hình có khi ta hiểu nổi có khi ta không hiểu nổi.Ý thức hệ “tam giáo đồng nguyên” của đời Lý cũng được nhà sư thấm nhuần. Trong những dòng kệ có cả triết lý thâm sâu của nhà Phật vũ trụ quan Dịch của triết học Trung Quốc: “Sinh sinh chi vị dịch” (từ âm dương biến hoá ra vạn vật sinh sinh ra mãi gọi là dịch) phong thái của Lão Trang lạc nhiên tri mệnh (vui với thiên nhiên hiểu mệnh) của Nho gia. Theo Phật sự sống của người ta quyết không phải chỉ trong một thời kỳ mà vì nghiệp lực là sự tồn tục vô thuỷ vô chung và thích ứng với tính chất của nghiệp con người sinh vào nhiều cảnh ngộ và dưới những hình trạng sinh vật khác nhau: đó là thuyết “y nghiệp luân hồi” (samsara – lưu chuyển).Phật giáo còn cho rằng sinh mệnh do nhân duyên cấu tạo mà chủ trương vô-ngã-luận. Trang Tử thì nói: Bên này” cũng là “Bên kia”. “Bên kia” cũng là “Bên này”. Cốt tuỷ đích thực của đạo là khi “bên này” “bên kia” không còn mâu thuẫn nữa. Chỉ cái cốt tuỷ này như một cái trục là tâm điểm của vòng tròn và trả lời mọi thay đổi không ngừng”. Trong mọi biến dịch Lão giáo thấy đó là hiện thân của sự tác động hai cực âm dương và như thế họ tin rằng trong mọi cặp mâu thuẫn hai đối cực tương tác lên nhau một cách năng động. Trong bài thơ nó tương ứng với nở và tàn sinh và diệt sống và chết. Sự biến dịch này không nên xem là hệ quả của một lực mà là khuynh hướng chung bao gồm mọi vật và tình trạng. Sự vận động của đạo không phải do ai tác động mà thành mà là khuynh hướng hồn hậu tự nhiên. Nguyên lý tác động trong Lão giáo là sự hồn nhiên và vì con người cũng phải thuận theo Đạo nên sự hồn nhiên là một đặc tính của hành động con người. Thuận theo thiên nhiên mà làm đối với Lão giáo có nghĩa là làm một cách hồn nhiên tuỳ thuận tự tính. Lão giáo cho rằng cần tin theo trí tuệ trực giác nằm sẵn trong đầu óc con người cũng như qui luật của biến dịch nằm sẵn trong mọi xung quanh chúng ta. Đúng như Hoài Nam Tử đã nói: Cứ theo trật tự tự nhiên cứ trôi theo dòng của Đạo từ “Tri” đến “Ngộ” là cả một chặng đường dài.
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân
(Xuân đến xuân đi ngờ xuân tận
Hoa tàn hoa nở vẫn là xuân)
Sự trục nhãn tiền quáHai câu thơ giữa trong bài kệ của Mãn Giác thiền sư gợi nghĩ đến những câu thơ của thiền sư Vạn Hạnh trong bài Thị đệ tử cũng với triết lý Phật giáo:
Lão tòng đầu thượng lai
(Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi)
Thân như điện ảnh hữu hoàn vôLấy sự vật thiên nhiên làm thước đo Vạn Hạnh cũng như Mãn Giác muốn nói với con người ta rằng: Kiếp người thật ngắn ngủi sự hiện hữu của mỗi con người trên thế giới này chẳng qua chỉ là nhất thời thoáng qua như tia chớp như giọt sương sớm mai treo trên đầu ngọn cỏ. Chu kì một kiếp người giống như cuộc vận hành của đất trời không cùng: hết xuân đến thu hết tươi tốt đến khô héo hết tuổi trẻ (xuân) đến tuổi già (thu)... Đó là quy luật. Mà đã là quy luật thì con người không thể cưỡng nổi. Nên giữ cho mình cái mình cái bình thản trước vòng quay luân hồi của “Sinh lão bệnh tử”. Trong cái vô thường mà nhận ra cái thường hằng vĩnh cửu sống trong an lạc nhẹ nhàng mà mỉm cười trước đổi thay khi đó là đạt đạo.Đó cũng chính là một đặc trưng của văn học trung đại khi rất chú trọng mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên giữa kiếp người với trần thế mà ở đó thiên nhiên chi phối quyết định sự vần xoay của đời người. Thuý Kiều con người “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” cũng được ví vẻ đẹp với những chuẩn mực của thiên nhiên số phận cũng không tránh khỏi những gì mà thiên nhiên đã định sẵn: “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Thơ văn của các nhà Nho xưa dù mang tư tưởng xuất thế hay nhập thế đều giữ cho mình sự giao hoà với thiên nhiên đất trời để đứng vững không lấy làm kinh sợ trước sóng gió cuộc đời. Nói riêng thơ Thiền cũng vậy. Dù có miêu tả sắc thân tịch diệt thì vẫn giữ trong thơ trong mình một tâm hồn yên tĩnh đến kì lạ. Con người trong Phật giáo thiền tông cũng là con người: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”: làm chủ trong mọi biến ảo. Vì thế Mãn Giác thiền sư nói đến vòng quay “lão” của đời người cũng chỉ như một bước xoay vần của tạo hoá. Câu kệ có man mác buồn nhưng chủ yếu như một tiếng thở dài nhẹ và sâu. Từ triết luận về mùa xuân đất trời – xuân đời người về lẽ sinh tử Cáo tật thị chúng đã kiến tạo một vòng xoay khép kín: Sinh - lão - bệnh - tử sinh - trụ - dị - diệt bằng hình ảnh của một nhành mai âm thầm khẳng định sức sống vô biên và vĩnh hằng:
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
(Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tậnMãn Giác thiền sư đã kết Cáo tật thị chúng bằng hai câu thơ thất ngôn phá cách không đăng đối mà ngắt nhịp khác biệt ở câu cuối cùng: Đình tiền/ tạc dạ/ nhất chi mai. Một câu thơ không có động từ không bị làm hẹp nghĩa bởi chữ: “khai” (nở) đáng ra phải có theo nguyên tắc để đối với động từ “lạc” ở trên.Cây mai chính là biểu tượng của vẻ đẹp kín đáo thanh cao dịu dàng. Mai cũng là loài cây đứng đầu trong tứ hữu của người xưa. Có thể kể để Lục Du đời Tống viết trăm bài về mai. Tranh màu nước của Trọng Nhân vẽ mai đen trắng trong màu nắng bát ngát Đời. Người mượn mai biểu hiện khí tiết phẩm hạnh của mình. Kẻ sĩ bất khuất Cao Bá Quát cũng phải hạ bút: “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (Một đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai). Câu thơ mượn hình ảnh cành mai không phải một bông mai nở một cây mai mà chỉ là một cành mai đêm qua ở sân trước. Sau sự huỷ diệt là bất diệt. Mùa xuân lại được tiếp nối vĩnh cửu. Sự sống con người được lặp lại. Mùa xuân đất trời tái tạo mùa xuân đời người thanh khiết hơn đẹp đẽ hơn. Đúng như Khổng Tử đã dùng “thiên địa vạn vật nhất thể” (trời đất vạn vật đều có cái lý ấy cả tất là cùng đồng một thể) để làm thống kê cho học thuyết của mình. Cái lý nhất thể ấy lưu hành khắp trong vũ trụ theo cái lẽ tương đối tương điều hoà mà sinh sinh hoá hoá. Vậy cái lý ấy là cái nguyên nhân của sự sinh hoá trong vũ trụ. Cách Mãn Giác thiền sư hàng thế kỉ Chế Lan Viên cũng có những câu thơ thật đẹp viết về vòng luân hồi cuộc đời mang đậm tư tưởng Phật giáo thiền tông trong văn học trung đại:
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
Anh tồn tạiNhành mai Mãn Giác vẫn hiện hữu ở đó từ “đêm qua” và qua đêm vẫn còn nguyên vẹn đó. Còn nhành mai đó thì vẫn còn xuân đến xuân đi còn có hoa nở hoa rụng. “Nhất chi mai” xuất thần đã trở thành biểu tượng cho tâm thế yên nguyên. Ấy là cái thường trong cái vô thường. Đó là chân như tưởng như hiếm có trong cuộc đời. Và như vậy bên ngoài vẻ hằng thường bình thản trước thời cuộc số mệnh là tâm hồn còn thiết tha còn gắn bó nhiều lắm với cuộc đời này của thiền sư. Đó cũng chính là một trong những nét đẹp sâu sa trong tư tưởng của các tác giả trung đại.
Không bằng tuổi tên mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên
Trang trong tổng số 2 trang (18 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối