Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:Tế Hanh giới thiệu về quê hương mình bằng những câu thơ chân mộc, hồn nhiên đến thế. Vậy mà, khi đọc lên không ai lại không cảm thấy nao lòng khi nghĩ về làng quê của mình. Bởi lẽ đã là người, ai cũng có một làng quê để chào đời, một làng quê để lớn lên và một làng quê để thương nhớ. Cái làng quê ấy đối với người Việt Nam đã trở thành một sức mạnh tinh thần trong quá trình dựng nước và giữ nước cũng như giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Nó cũng là nơi tìm về của mỗi chúng ta sau những ngày tháng phiêu linh trong cuộc đời trần thế nầy. Tế Hanh hôm nay đã trở về cõi vĩnh hằng hay chính ông đã trở về với “mảnh hồn làng” của quê hương ông. Trở về cái nơi mà ông đã cất tiếng khóc chào đời cách đây 89 năm.
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
(Quê hương)
Làng tôi vốn làm nghề chài lướiLà “con đường quê” oằn mình trong mưa nắng để chia sẻ những nỗi cơ cực của người dân quê một nắng hai sương quanh năm lam lũ
nước bao vây cách biển nửa ngày sông”
(Quê hương)
Tôi con đường nhỏ chạy lang thangĐó là hình ảnh cái ga tàu lặng lẽ nơi phố huyện buồn thê thiết khi chứng kiến bao cảnh tiễn biệt nơi sân ga. Để rồi với tâm hồn nhạy cảm của một thi nhân, Tế Hanh đã nghẹn ngào, xa xót...
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
...
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất hương đồng chẳng ngớt tuôn
(Lời con đường quê)
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàuĐó còn là hình ảnh một ngôi trường làng nhỏ nhoi lặng im mà sau bốn năm xa cách, khi về thăm, thi nhân không khỏi chạnh lòng trước cảnh xác xơ của một nơi đã từng ôm ấp bao kỷ niệm mộng mơ của tuổi học trò.
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.
(Những ngày nghỉ học)
Hơn bốn năm trời trở lại đâyRồi “mảnh hồn làng” ấy lớn dần theo năm tháng, đã ăn sâu trong tâm thức của thi nhân để trở thành một thứ tâm cảm, một thứ tâm linh trong thơ Tế Hanh dào dạt và sâu lắng, tha thiết mà ngọt ngào. Chính vì vậy cho dẫu sau này khi đã bước “sang bờ tư tưởng” mới, không còn vướng víu những buồn tủi cô đơn của một “thời thơ ây”. Nhưng không vì thế mà nó thiếu vắng ngọn lửa nhớ thương cháy bỏng, những thao thức đến nghẹn lòng khi nhà thơ hồi tưởng về hình ảnh quê hương. Và lúc ấy “mảnh hồn làng” lại hiện lên với những cung bậc tình cảm mới da diết và nhói đau. Bởi đây là thời gian nhà thơ phải ly hương “xa nhà đi kháng chiến”, để rồi sau đó phải sống dằn dặt xa quê với tâm trạng “ngày Bắc đêm Nam” trong hơn hai mươi năm trời khi đất nước tạm thời bị chia cắt. Vì vậy, “Mảnh hồn làng” trong thơ Tế Hanh lúc nầy là hình ảnh một “vườn xưa” cháy bỏng khát vọng tìm về sau những ngày công tác
Trường ơi! Sao giống tấm thân này?
Mái hư, vách lở buồn xơ xác
Tim héo, hồn đau tủi đoạ đày.
(Trường xưa)
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanhLà hình ảnh một “con sông quê hương” cuồn cuộn chảy trong tâm thức thi nhân với biết bao hồi ức chất đầy nỗi nhớ thương mà mỗi khi đọc bài thơ lòng chúng ta không khỏi thấy cồn cào, se thắt khi nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ ở một con sông quê nào đó trên đất nước Việt Nam dấu yêu gắn liền với nền văn minh sông nước này
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
(Vườn xưa)
Quê hương tôi có con sông xanh biếcVà cái “mảnh hồn làng” trong tâm thức của thi nhân không chỉ là hình ảnh “con sông quê hương”, là “mảnh vườn xưa” mà còn là “tiếng sóng” xao xác trong hồn thơ của ông, cho dù sống trong xa cách nghìn trùng ông vẫn mang nó trong lòng. Bởi với ông cái hồn quê sông biển ấy vừa là thực lại vừa là mộng, vừa hiện hữu lại vừa hư vô, như thân phận của mỗi con người.
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè,
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ.
(Nhớ con sông quê hương)
“Nơi rất thực và cũng là rất mộng.Thật vậy, cũng như bao người dân Việt vốn hấp thụ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, sông biển đã trở thành tâm thức trong thơ Tế Hanh. Và tâm thức về sông biển phải chăng là sự kết tinh của cái “mảnh hồn làng”, là sự hiện hữu của hồn quê, tình quê trong thơ ông. Đây cũng là biểu hiện của văn hoá làng trong thơ Tế Hanh. Vì vậy, nói đến thơ Tế Hanh không thể không nói đến tâm thức sông biển như một căn tính của thơ ông. Bởi chính nhà thơ đã xác quyết.
Của đời tôi yêu biển tự bao giờ
Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng sóng
Như tiếng lòng, giục giã những lời thơ.”
(Tiếng sóng)
Tôi nói đến trời mây, tôi nói đếnQuả thật, hồn quê trong thơ Tế Hanh chính là kết tinh của “mảnh hồn làng” và đó là cái làm nên giá trị của thơ ông. “Mảnh hồn làng” ấy đã ôm ấp trong nó không chỉ có sông biển quê hương, có con đường quê với những ngày nghỉ học, có những toa tàu, có những vườn xưa lối cũ, có những bãi mía xạc xào những tiếng lòng thương nhớ mà còn có cả hình ảnh của những con người dân quê lam lũ “Sớm khuya chài lưới bên sông / Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng”, là hình ảnh người mẹ dấu yêu mà ngày mẹ mất tác giả như thấy cả đất trời sụp đổ.
Những cánh đồng, nhà máy, những hoa chim
Nhưng muốn nói nhiều hơn về xứ biển
Như cái gì thầm kín nhất trong tim
(Tiếng sóng)
Con lặng nhìn chung quanhĐó cũng là cái tủ sách của cha mà với nhà thơ “cái hòm nhỏ con con / với tôi là của quý / thơ đã hoá tâm hồn / sách đã thành tri kỉ” (Cái tủ sách của cha tôi)... Và tất nhiên trong đó không thể thiếu vắng hình ảnh của người thương ở “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” để rồi cho mãi đến bây giờ thi nhân vẫn cứ thấy lòng ngẩn ngơ bất ổn.
Thấy mồ to mả bé
Và nhìn lại đời mình
Thấy từ đây thiếu mẹ
(Bên mồ mẹ)
Câu chuyện ngây thơ tự thuở nàoQuả thật, cái làm nên “mảnh hồn làng” trong thơ Tế Hanh là thế đó. Tất cả đã kết tinh thành một điệu hồn riêng trong thơ ông, tạo nên một phong cách thơ đôn hậu, đằm thắm và ngọt ngào. Và Tế Hanh cũng chỉ thành công ở những bài thơ mang giọng điệu trữ tình. Đó là cái duyên, cái độc đáo trong thơ Tế Hanh tạo nên gương mặt riêng của Tế Hanh trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều ấy mãi mãi hiện tồn như chính cái “mãnh hồn làng” trong thơ ông. Và chính cái hồn quê thấm đẫm chất văn hoá làng thuần Việt này đã biến thành máu thịt trong ông. Vì vậy dẫu những ngày đang sống ở Bắc Kinh tráng lệ thi nhân vẫn thấy hồn quê lai láng chảy trong tâm cảm của mình
Bây giờ nhớ lại ngỡ chiêm bao
Ơi cô bạn nhỏ đâu rồi nhỉ?
Chỉ thấy trong tôi mía xạc xào...
(Mía)
Đêm nay trăng sáng Bắc KinhĐể rồi như một qui luật tất yếu của tình cảm đối với dân tộc mà chính ông đã nghiệm sinh “Anh xa nước nên yêu thêm nước” ông đã mơ thấy “Hàng Châu thành Hà Nội/ Nước Tây Hồ bỗng hoá nước Hồ Tây” (Bài thơ tình ở Hàng Châu). Thế mới biết cái tình quê, cái hồn quê, cái “mảnh hồn làng” trong thơ Tế Hanh sâu nặng và thiết tha đến dường nào. Nói như nhà thơ Phạm Hổ trong lời giới thiệu tuyển tập thơ Tế Hanh (1938 - 1988) do sở Văn hoá và thông tin Quảng Ngãi, quê hương ông xuất bản năm 1989, năm đầu tiên tái lập tỉnh, cách đây đúng hai nươi năm: “Nếu tôi không nhầm thì thời ấy, (thuở phong trào thơ mới 1932 - 1945 - THA) khi Xuân Diệu say đắm làm thơ về tình yêu, Lưu Trọng Lư mơ màng làm thơ về sầu mộng, Chế Lan Viên suy tư về sự điêu tàn, Phạm Huy Thông hướng về lịch sử, Huy Cận cảm xúc với đất trời... thì Tế Hanh đã nói đến cái làng quê của mình: “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới...” (Quê hương). “Tôi con đường nhỏ chạy lang thang / kéo nỗi buồn không dạo khắp làng” - chữ “không” sao mà đáng yêu và đáng thương (Lời con đường quê). Và ngay từ đầu, anh đã nói về quê hương của mình với một nỗi buồn lặng lẽ, khá mênh mang... Có lẽ đó là cái “tạng” cái bản chất của anh chăng?
Nhớ trăng Hà Nội thấm tình quê hương
Lòng như cuộn chỉ yêu thuơng
Quấn theo mỗi một đoạn đường ra đi
(Dặm liễu)