15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Từ phẩm
Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu
2 bài trả lời: 1 bản dịch, 1 thảo luận
2 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 24/01/2008 12:33, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 25/01/2008 07:11

戚氏

晚秋天,
一霎微雨灑庭軒。
檻菊蕭疏,
井梧零亂惹殘煙。
淒然,
望江關。
飛雲黯淡夕陽間。
當時宋玉悲感,
向此臨水與登山。
遠道迢遞,
行人淒楚,
倦聽隴水潺湲。
正蟬吟敗葉,
蛩響衰草,
相應喧喧。

孤館度日如年。
風露漸變,
悄悄至更闌。
長天淨,
絳河清淺,
皓月嬋娟。
思綿綿,
夜永對景,
那堪屈指,
暗想從前。
未名未祿,
綺陌紅樓,
往往經歲遷延。

帝裡風光好,
當年少日,
暮宴朝歡。
況有狂朋怪侶,
遇當歌、
對酒競留連。
別來迅景如梭,
舊遊似夢,
煙水程何限。
念利名、
憔悴長縈絆。
追往事、
空慘愁顏。
漏箭移、
稍覺輕寒。
漸嗚咽、
畫角數聲殘。
對閑窗畔,
停燈向曉,
抱影無眠。

 

Thích thị

Vãn thu thiên,
Nhất thiếp vi vũ sái đình hiên.
Hạm cúc tiêu sơ,
Tỉnh ngô linh loạn nhạ tàn yên.
Thê nhiên,
Vọng giang quan.
Phi vân ảm đạm tịch dương gian.
Đương thì Tống Ngọc bi cảm,
Hướng thử lâm thuỷ dữ đăng san.
Viễn đạo điều đệ,
Hành nhân thê sở,
Quyện thính Lũng thuỷ sàn viên.
Chính thiền ngâm bại diệp,
Cung hưởng suy thảo,
Tương ứng huyên huyên.

Cô quán độ nhật như niên.
Phong lộ tiệm biến,
Tiễu tiễu chí canh lan.
Trường thiên tịnh,
Giáng hà thanh thiển,
Hạo nguyệt thiền quyên.
Tứ miên miên,
Dạ vĩnh đối cảnh,
Na kham khuất chỉ,
Ám tưởng tòng tiền.
Vị danh vị lộc,
Ỷ mạch hồng lâu,
Vãng vãng kinh tuế thiên diên.

Đế lý phong quang hảo,
Đương niên thiếu nhật,
Mộ yến triêu hoan.
Huống hữu cuồng bằng quái lữ,
Ngộ đương ca,
Đối tửu cạnh lưu liên.
Biệt lai tấn cảnh như thoa,
Cựu du tự mộng,
Yên thuỷ trình hà hạn.
Niệm lợi danh,
Tiều tuỵ trường oanh bạn.
Truy vãng sự,
Không thảm sầu nhan.
Lậu tiễn di,
Sảo giác khinh hàn.
Tiệm ô yết,
Hoạ giốc sổ thanh tàn.
Đối nhàn song bạn,
Đình đăng hướng hiểu,
Bão ảnh vô miên.


Điệu từ này còn có tên Mộng du tiên 夢遊仙, dài 212 chữ, là điệu mạn từ dài thứ hai trong Tống từ, chỉ sau Oanh đề tự 鶯啼序 của Ngô Văn Anh 吳文英 đời Nam Tống (dài 240 chữ). Tô Thức 蘇軾 và Khưu Xứ Cơ 丘處機 cũng có bài viết theo điệu này. Bài này phiến đầu miêu tả cảnh sắc chiều tối sau cơn mưa, phiến giữa phác hoạ tâm tình một mình lúc đêm thanh, phiến cuối cùng nhớ lại sinh hoạt thời niên thiếu.

Vương Chước 王灼 trong Bích Kê mạn chí 碧雞漫志 viết: “Ly tao tịch mịch thiên tải hậu, Thích thị thê lương nhất khúc chung” 離騷寂寞千載後,戚氏淒涼一曲終 (Sau nghìn năm khi khúc Ly tao của Khuất Nguyên trở thành quên lãng, thì cuối cùng lại có một khúc Thích thị không kém phần thê lương), ý nói bài này thê lương không kém Ly tao của Khuất Nguyên.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo

Buổi cuối thu,
Phút dội sân hiên, lất phất mưa.
Giậu cúc chưa tàn,
Lá ngô vàng rụng, khói may mờ.
Lạnh lùng,
Nhìn Giang quan.
Mây bay u ám buổi chiều tà.
Năm nao Tống Ngọc thương cảm,
Cũng từng non nước ngắm bao la.
Đường dài dằng dặc,
Người đi buồn tẻ,
Mệt nghe nước chảy lững lờ.
Trong lá úa ve kêu,
Cỏ già dế dóng,
Rên rỉ nhịp hoà.

Quán khách ngày tựa năm dài.
Gió sương biến đổi,
Canh khuya vắng như tờ.
Trời yên lặng,
Sông Ngân trong vắt,
Trăng sáng nõn nà.
Nghĩ miên man,
Đêm dài ngắm cảnh,
Bấm đốt tay nhớ,
Lại buổi ngày xưa.
Chưa danh chưa lộc,
Lầu hồng đường gấm,
Năm chầy lần lữa trôi qua.

Kinh đô phong cảnh đẹp,
Trẻ trai đang độ,
Tiệc sớm trà trưa.
Huống nữa bạn bè ngông gỡ,
Gặp đàn hay,
Rượu ngọt đắm say sưa.
Chia tay ngày tháng thoi đưa,
Bạn chơi tựa mộng,
Dặm ngàn khói nước xa.
Bước lợi danh,
Trăng khói mãi không tha.
Ôn chuyện cũ,
Nét mặt thẫn thờ.
Giờ khắc trôi,
Hơi lạnh nhẹ lùa.
Nghẹn ngào thổi,
Rời rạc tiếng tù và.
Ngồi bên song vắng,
Khêu đèn chờ sáng,
Ôm bóng ngẩn ngơ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

戚氏(中呂調)

離騷寂寞千載後
戚氏淒涼一曲終

" Ly  tao "  tịch  mịch  thiên tải  hậu  
" Thích thị " thê lương nhất khúc chung

Chưa có đánh giá nào
Trả lời