Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Bật Trực
Đăng bởi Vanachi vào 06/03/2024 23:12
廿年叱吒起風雲,
如此英雄古罕聞。
邯野毒流千萬骨,
驪山禍在百年墳。
空含泯泯千秋恨,
孤負堂堂八尺身。
光景一般成粉齏,
令人終古笑嬴秦。
Trấp niên sất trá khởi phong vân,
Như thử anh hùng cổ hãn văn.
Hàm dã độc lưu thiên vạn cốt,
Ly sơn hoạ tại bách niên phần.
Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận,
Cô phụ đường đường bát xích thân.
Quang Cảnh nhất ban thành phấn mị,
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần.
Hai chục năm thét lác, dậy gió mây,
Anh hùng như thế, xưa nay cũng ít nghe thấy.
Cánh đồng Hàm chảy trôi chất độc từ nghìn vạn xương cốt,
Núi Ly để lại tai hoạ bởi nơi xây dựng mộ phần cho trăm năm.
Ngậm suông mối hận nghìn năm đằng đẵng,
Riêng phụ tấm thân tám thước đường đường.
Quang Trung, Cảnh Thịnh thảy đều xương tan thịt nát cả.
Khiến cho người đời xưa nay cười chê như Doanh Chính nhà Tần.
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Bao năm thét mắng át phong vân
Đủ thấy anh hùng - bậc vĩ nhân
Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác
“Khuân Sơn” phần mộ hoạ trăm năm
Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
Nỡ phụ đường đường tám thước thân
Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần.
Gửi bởi Vanachi ngày 06/03/2024 23:35
1. Mở đầu
Năm 2005, giới nghiên cứu và độc giả trong cả nước được một bận “xôn xao” bởi phát hiện của Hồng Phi - Hương Nao về bài thơ có tiêu đề được phiên dịch là Kiến Quang Trung linh cữu (Thấy linh cữu Quang Trung) (1). Đây là tác phẩm của nhà nho Lê Bật Triệu (tục gọi Cả Triệu, 1771-1846) người xứ Thanh (2). Từ bài thơ, người ta hi vọng giải quyết được một trong những “bí ẩn” của khoa học khảo cổ và khoa học lịch sử: vị trí lăng mộ Quang Trung Nguyễn Huệ. Nhưng rồi vấn đề lại rơi vào bế tắc bởi một lẽ khá đơn giản, văn bản bài thơ được viết bằng chữ Hán hơi có phần khó đọc (về cả mặt chữ lẫn nội dung, lại không có dị bản để đối sánh, khảo dị) khiến cho việc luận giải thông tin được chờ đợi nhất đó trở nên mơ hồ không chắc chắn: Khuân/ Khuôn Sơn, Nguỵ Sơn (3) hay Xước Sơn, hay một địa danh nào khác? Một chữ đã như thế, các chữ còn lại thì sao? Liệu việc phiên dịch, chú giải bài thơ có hẳn đã chính xác, rốt ráo?...
Nhân được tiếp xúc với nguyên bản chữ Hán của bài thơ từ các nguồn văn bản khác nhau, chúng tôi đã có dịp đối chiếu và đọc sâu vào tác phẩm và xin trình ra đây cách đọc và cách hiểu của mình về bài thơ này, từ đó, mong góp phần giải quyết phần nào những câu hỏi đặt ra ở trên.
2. Nội dung
2.1. Văn bản bài thơ
Bài viết của Hồng Phi - Hương Nao cung cấp cho chúng ta một văn bản Nam hành tạp vịnh nằm trong Liên Khê di tập tìm thấy ở Thanh Hoá (tạm gọi là bản Thanh Hoá - bản A). Chúng tôi cũng đã được tiếp cận với văn bản này từ bản chụp của một người bạn (4). Văn bản khá sáng rõ và cũng không đến nỗi khó đọc. Chúng tôi lại được tiếp xúc với một dị bản khác của Liên Khê di tập hiện được tàng trữ ở Thư viện Quốc gia Việt Nam tại Hà Nội mang kí hiệu R.33 (tạm gọi là bản TVQG - bản B) (5). So sánh hai bản A và B, chúng tôi nhận thấy bản A nội dung có phần đầy đủ hơn (chẳng hạn bản A có phụ lục cả những bài thơ “nguyên vận” mà tác giả hoạ lại, và có lời dẫn như bài: Phụ Tiên Điền Thị lang công tặng thi nhất thủ, Phụ Tha Linh công tặng thi nhất thủ,… bản B bỏ đi những bài thơ này; bản A chép khá đầy đủ chữ nghĩa, bản B để trống một số chữ,...). Tạm thời, chúng tôi chưa thể xác định được niên đại bản nào cổ hơn bản nào, nhưng với việc bản A chép đầy đủ hơn bản B thì nó xứng đáng được chọn làm bản nền để tái lập văn bản chuẩn; bản B có tác dụng tham khảo, đối chiếu.
Về Nam hành tạp vịnh, bài tựa dẫn tập thơ của Lê Bật Triệu cho biết tập thơ được viết ra để “ghi chép lại những nơi đã từng đi qua để không đến nỗi đã qua mắt mà lại quên” 記所經歷之境使不至過眼卻忘耳 [bản B, tờ 41a]. Lời tựa được viết vào ngày sau Rằm tháng Giêng năm Ất Sửu (1805) niên hiệu Gia Long, cho thấy nhiều khả năng tập thơ được hoàn thành vào năm này. Bài Kiến Quang Trung… nằm ở tờ 50a-b của bản A và 49b bản B.
Có thể thẩy 2 dị bản của bài thơ không sai lệch nhiều, chỉ có 1 chữ đằng trước 2 chữ “phong vân” thì bản A viết hành thảo khó đọc (Hồng Phi - Hương Nao đọc là “tẩu” 走, chúng tôi đoán là chữ “khởi” 起); bản B để khuyết chữ này (người thời sau điền vào đó bằng bút sắt chữ “chuyển” 轉). Các chữ còn lại đều dễ đọc. Từ hai dị bản trên, chúng tôi xác lập văn bản bài thơ như sau:
見光中靈櫃2.2. Phiên dịch bài thơ
廿年叱吒起風雲,
如此英雄古罕聞。
邯野毒流千萬骨,
驪山禍在百年墳。
空含泯泯千秋恨,
孤負堂堂八尺身。
光景一般成粉齏,
令人終古笑嬴秦。
Phiên âm:Bây giờ, chúng tôi xin đi sâu vào từng câu chữ của bài thơ và dịch chú theo cách hiểu của mình.
Kiến Quang Trung linh cữu
Trấp niên sất sá tẩu phong vân,
Như thử anh hùng cổ hãn văn.
Hàm Dã độc lưu thiên vạn cốt,
Khuân Sơn hoạ tại bách niên phần.
Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận,
Cô phụ đường đường bát xích thân.
Quang cảnh nhất ban thành phấn mị,
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần.
Dịch nghĩa:
Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung
Hai mươi năm tiếng thét át cả gió mây.
Chỉ chừng ấy cũng đủ thấy là bậc anh hùng hiếm có!
Trên chiến trường Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác thù.
Núi Khuân không ngờ lại để mối hoạ liên luỵ đến phần mộ nơi yên giấc ngàn năm.
Bỗng phải chịu sự chỉ trích của mối hận muôn đời,
Nỡ phụ đến tấm thân tám thước của bậc anh hùng.
Quang cảnh nói chung tất cả đã trở thành cát bụi,
Khiến cho người đời muôn thuở cười Tần Doanh bạo chúa.
1. Từ văn bản bài thơ và vấn đề phiên dịch...
[...]
2....đến việc hiểu quan điểm lịch sử của nhà Nho Lê Bật Triệu
Hầu hết độc giả bài thơ này, như chúng tôi được biết, đều cho rằng, Lê Bật Triệu có cái nhìn rất thiện cảm với Quang Trung và nhà Tây Sơn và phê phán sự tàn bạo của Gia Long và nhà Nguyễn. Thậm chí nhiều người còn ca ngợi sự can đảm của họ Lê khi ca ngợi Tây Sơn ngay dưới thời Gia Long (đặc biệt khi người ta liên tưởng đến những vụ án văn chương hay “văn tự ngục” thời Gia Long, Minh Mệnh...). Sự thực có phải vậy không? Quả là 2 câu đầu, Lê Bật Triệu có đánh giá Quang Trung như một người anh hùng: “Hai mươi năm thét lác mây gió này/ Anh hùng như thế xưa nay hiếm thấy”. Đánh giá như thế là khách quan, phù hợp với thực tế 20 năm oanh liệt, dũng mãnh của Nguyễn Huệ. Đó cũng là hai câu tổng kết cuộc đời hoạt động, chiến đấu lừng lẫy của vua Quang Trung (trong Hoàng Lê nhất thống chí có kể, các nhà Nho Bắc Hà tuy rất căm ghét Nguyễn Huệ nhưng vẫn phải thừa nhận ông là tay kiệt hiệt, dũng mãnh..). Nhưng theo chúng tôi, bản thân việc sử dụng hình ảnh “thét lác chuyển gió mây” (sất trá chuyển phong vân) cũng có hàm ý châm biếm (có cái ý chỉ sự hung hăng). Đó lại là một phản đề để ông bình luận về lăng mộ, về linh cữu Quang Trung mà ông được chứng kiến: lúc còn sống anh hùng là vậy nhưng kết cục thì ra sao? Những câu thơ tiếp theo sẽ trả lời cho câu hỏi ấy. Đó là những câu đầy ý vị mỉa mai chua chát, thậm chí có ý ngầm so sánh Quang Trung với Tần Thuỷ Hoàng, so việc xây dựng lăng mộ của Quang Trung với việc xây lăng mộ của vị bạo chúa nhà Tần. Hai câu thực (3-4) rõ ràng có ý đó. “Cánh đồng Hàm Dương” (Hàm dã) chứa đây chất độc, chồng chất và thấm đẫm bao nhiêu xương máu của người dân và binh lính. “Ly Sơn” là lăng mộ được Tần Thuỷ Hoàng cho xây dựng từ khi còn trẻ, xây dựng nhiều năm mới xong, hao tổn nhiều tiền tài, sức lực, tính mạng con người. Đây cũng là cái hoạ cho sự suy vong của nhà Tần sau khi Tần Thuỷ Hoàng chết không lâu. Câu thơ có tính cảnh báo sâu sắc cho những triều đại đổ bao công của vào việc xây dựng lăng tẩm hoành tráng, cầu kỳ làm “nhọc sức dân” (trong đó không loại trừ cả triều Nguyễn về sau). Hai câu thực qua cách nói vòng đã dựng lên chân dung Quang Trung như một bạo chúa. Hai câu luận mỉa mai cái việc xây lăng mộ tốn kém, hao tổn đó [của Quang Trung] là vô ích bởi nó cũng không bảo vệ được “tấm thân đường đường tám thước” của bản thân người anh hùng “xoay chuyển gió mây” nọ, thậm chí là “riêng phụ” (đơn độc), để người dưới chín suối “ngậm suông mối hận nghìn thu dằng dặc”. Lời mỉa mai quả rất sâu cay, khắc nghiệt, làm nhạt đi rất nhiều hai tiếng “anh hùng” ông dành tặng cho Quang Trung ở trên. Đúng là, người ta sống dù anh hùng đến mấy, dù dữ dội, oanh liệt thế nào, khi “nhắm mắt xuôi tay” cũng khó tự bảo vệ được tấm thân mình chứ chưa nói gì đến việc bảo vệ triều đại mà mình dựng nên nếu không có ân đức, không có chiến lược lâu dài! Lúc ấy, đành chỉ buông mặc cho số phận, phúc phận mà thôi. Đến hai câu kết thì sự mỉa mai, châm chích đã quá rõ ràng: tấm thân hai vua Quang [Trung], Cảnh [Thịnh] cuối cùng cũng “thịt nát xương tan” như “bột phấn” (phấn), “bột gia vị” (tễ) hay như dân gian thường nói “nát như tương” vậy. Tác giả bình luận: điều đó “khiến cho người đời xưa nay cười chê là Doanh Chính nhà Tần”. Tần Thuỷ Hoàng lẫy lừng là thế, nhưng cái chết cũng thật thầm hại như trong cách kể của Tư Mã Thiên: thi thể bốc mùi khiến quần thần phải mua cá muối chở theo để xua xú uế. Mộ phần ông ta tuy không bị quật lên nhưng tương truyền cũng bị [Hạng Vũ] đốt phá, tan nát. Còn hậu duệ của ông, không thể đến Vạn Thế như tham vọng của vị Hoàng đế này mà chỉ đến Nhị Thế đã suy vong thê thảm, bị giết chết một cách thảm hại (mà ở đây cũng có sự trùng hợp mà Lê Bật Triệu hẳn có nghĩ đến: nhà Tây Sơn của vua Quang Trung cũng chỉ tồn tại được 2 đời). Nhà Nho đã rất hỉ hả với chuyện đó bởi mối thù “phần thư khanh Nho” (đốt sách chôn Nho) của nhà Tần. Như trên đã nói, toàn bài thơ đều dùng những điển tích ám chỉ đến nhà Tần, lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng, sự nghiệp Tần Thuỷ Hoàng v.v... Ơ đây, sự ví von đã rõ. Không thể hiểu “Doanh Chính nhà Tần” ở đây để chỉ Gia Long được bởi bài thơ đang viết về Quang Trung, về linh cữu Quang Trung, sự nghiệp của ông. Câu trên cũng trực tiếp nói về hai cha con Quang Trung thì câu dưới không thể đột ngột chuyển đổi đối tượng như thế được. Bản thân cách gọi “xách mé” niên hiệu các vua Tây Sơn ở tiêu đề (Quang Trung) và đặc biệt là ở câu thứ 7 (Quang, Cảnh) cũng eho thấy thái độ “bất kính” của Lê Bật Triệu. Trên thực tế, đây là một bài thơ có thể xếp vào thể tài vịnh nhân vật lịch sử, trong đó nhân vật trung tâm là vua Quang Trung. Như thế thì Lê Bật Triệu cũng giống như nhiều người khác đều thể hiện tiếng nói ủng hộ nhà Nguyễn (Gia Long) hoặc nhà Lê chứ không phải là ca ngợi hay nuối tiếc cho triều Tây Sơn như chúng ta vẫn tưởng (chẳng hạn, Nguyễn Du trong Long thành cầm giả ca cũng không hề nuối tiếc cho sự nghiệp của nhà Tây Sơn). Nhưng cái giá trị, cái vượt lên thiên kiến chính trị tầm thường của bài thơ chính là ở chỗ, nó còn có ý triết lý cao hơn sự hơn kém, tồn vong, đối đầu giữa các triều đại. Đó là Lê Bật Triệu nói về sự hư vô của kiếp người (kể cả đây là anh hùng vĩ nhân): Sự nghiệp lẫy lừng, hô gió gọi mây là thế, xây dựng mộ phần tính kế trăm nghìn năm [cho bản thân và con cháu] là thế; nhưng rồi cuối cùng ra sao, đều là “hận suông”, ngay tấm thân “đường đường” mình cũng không được bảo toàn, cũng bị phụ, lại bị người đời cười chê như “bạo chúa” Tần Thuỷ Hoàng. Như thế, danh tiếng lại hoá ra tai tiếng; tưởng phúc mà lại trở thành hoạ! Rõ ràng, Lê Bật Triệu nhìn nhận sự kiện lịch sử không đơn thuần bằng con mắt một công dân, một thần tử mà còn dưới con mắt một nhà thơ, một nghệ sĩ (cũng như Nguyễn Du nhìn sự sụp đổ của nhà Tây Sơn trong Long thành cầm giả ca vậy) với sự mẫn cầm với cuộc đời “dâu bể”, với số phận “không quá trăm năm” của con người.
Thái độ của Lê Bật Triệu với nhà Tây Sơn như vậy có thể hiểu được chăng? Hoàn toàn có thể và khá logic. Mặc dù trong tập thơ này, ta thấy có một bài Lê Bật Triệu có cảm tình với bà Thiếu phó (nhiều khả năng là nữ tướng Bùi Thị Xuân với những chi tiết phù hợp với tiểu sử của bà), đó là bài thơ Nôm Vãn Thiếu phó phu nhân 輓少傅夫人 (Điếu bà phu nhân ông Thiếu phó) [bản B, tờ 39b] (đây cũng lại là một bài đánh giá khách quan và công tâm của Lê Bật Triệu với một vị nữ tướng anh hùng, kiên trinh hiếm có vượt lên trên định kiến chính trị). Bài thơ tạm được phiên âm như sau:
Thâm khuê mấy kẻ dạ anh hùng,Nhưng không phải vì thế mà ông có thiện cảm với triều Tây Sơn. Đánh giá Bùi Thị Xuân ông đứng trên quan điểm đạo nghĩa: đây là người phụ nữ anh hùng, tiết liệt, có chính khí (không phân biệt bên nào, không lấy thành bại để luận anh hùng, khí phách). Đọc các tác phẩm văn học trung đại, ta thấy không hiếm những tác phẩm ca ngợi đối phương đứng trên quan điểm đó. Quan điểm về triều đại chính thống, về lý tưởng chính trị thì lại hoàn toàn khác. Đó là quan điểm chính trị phổ biến lúc bấy giờ. Hai bài thơ sau đây (cũng nằm trong tập Nam hành tạp vịnh) chứng minh điều đó.
Liệt tiết khen ai một tấm lòng.
Cờ đỏ Luỹ Thầy mình giúp chúa,
Lụa đào Cửa Vệ phận theo chồng.
Phai son nghẹn những trai đôi nước,
Dồi phấn buồn thay gái sáu cung.
Nghe nói rằng thiêng, thiêng cũng phải,
Xưa nay chính khí của trời chung.
西山寇賊撼浮春,Bài thơ thể hiện rõ quan điểm của Lê Bật Triệu, xem Tây Sơn là “giặc cướp” (khấu tặc) [bản A chép là “cuồng khấu”: bọn giặc điên cuồng], “bọn giặc giáo hoạt” (hoạt tặc), “giặc” (hàng tặc), xem việc hy sinh chống lại Tây Sơn là “khẳng khái”, “lòng son”, “trung thần”, “trung nghĩa”, “cương thường”... Còn đương nhiên, bọn “hàng thần” thì bị mỉa mai, chê cười. Thậm chí, hình ảnh “chúa cũ” (tiên quân) còn ấp ủ tâm trạng “hoài cổ”, lý tưởng phò chính thống của tác giả trước cuộc biến loạn to lớn “thay đổi sơn hà” (chữ Nguyễn Du) của thời cuộc.
慷慨披丹副將軍。
切齒不能吞猾賊,
裹尸尚可對先君。
一門父子綱常淚,
萬里山河節義身。
降賊老爺今在否?
相逢何面見忠臣。
Phiên âm:
Tây Sơn khấu tặc hám Phù Xuân,
Kháng khái phi đan phó tướng quân.
Thiết xỉ bất năng thôn hoạt tặc,
Khoả thi thượng khả đối tiên quân.
Nhất môn phụ tử cương thường lệ,
Vạn lý sơn hà tiết nghĩa thân.
Hàng tặc lão da kim tại phủ?
Tương phùng hà diện kiến trung thần.
Tạm dịch:
Bọn giặc cướp Tây Sơn làm rúng động Phù Xuân (Phú Xuân),
Phó tướng quân mở tấm lòng son rất là kháng khái.
Hàm răng xít chặt không thể nuốt bọn giặc giảo hoạt,
Thi thể trần truồng vẫn có thể đối diện với chúa xưa.
Cha con một nhà rơi lệ cương thường,
Núi sông muôn dặm có tấm thân trung nghĩa.
Lão già hàng giặc kia nay có biết ở đâu hay không?
Khi gặp nhau, còn mặt mũi nào mà nhìn bậc trung thần.
Sông Kinh hai cửa một duyềnh du,Bài thơ có cước chú như sau: “Trong thời Tây Sơn, Phò mã bị chết trận ở nơi đây” 西山年間驸馬治陣亡于此 [bản B, tờ 53a-b]. Vậy đây là một vị Phò mã chết trong trận chiến chống Tây Sơn ở cửa Ô Long/ Cửa Ông (tức cửa Tư Dung, nay là Tư Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế). Bài thơ thể hiện sự xót xa, thương cầm của ông với vị Phò mã xấu số. Nhưng hai câu cuối, ta lại thấy được niềm vui của tác giả vì “Nam Bắc nay đà chung một mối”. Chẳng có gì là luyến tiếc một triều đại mới qua cả. Hai bài cho thấy quan điểm phù Nguyễn/ phù Lê hay bao quát hơn là “phù chính thống” của Lê Bật Triệu. Ông cũng mang tư tưởng “nhất thống” của nhiều con người đương thời, chán ghét chiến tranh, mong mỏi hoà bình, thống nhất cho đất nước dưới một triều đại mới. Một lần nữa, ta lại thấy Lê Bật Triệu vượt lên trên quan điểm chính trị thông thường để nói lên khát vọng chân thành của mình.
Binh hoả tanh bành trải mấy thu.
Kìa cửa Ô Long đềnh lệnh đó,
Nào hồn Phò mã lạc lài đâu.
Cánh bằng quay lại buông Vũng Hới,
Lưới phiếu thu về thả chiếc câu.
Nam Bắc nay đà chung một mối,
Sông trong bể lặng nguyệt làu làu.