Than rằng:
Ngựa Hồ kêu gió bấc, ngậm ngùi thay mây cuốn lá cờ nheo;
Chim Việt đậu cành nam, ngao ngán nhẽ sương mờ chăn cẩm thuý.

Nhớ xưa,
Chức lãnh Quận công,
Quyền đương Đổng lý;
Mũ hồng mao, biều quai bạc, người miền bắc điểm trang;
Nón khâu lứ, chóp bịt đồng, cậu đàng trong tử tế.
Ba tháng mối diềng cắt đặt, lòng vì nước quản chi;
Bảy điều chính lệnh sửa sang, đức vì dân chẳng trễ.
Những ước trăm năm mưa móc, dòng trong thanh vị nước sông Ngô;
Nào ngờ một phút phân kỳ, nước đục dễ phai màu chè Huế.
Hay là vì ân xưa thầy tớ, xuống suối vàng theo dõi gót Thái sư;
Hay là nghĩa cũ vua tôi, lên mây bạc để tìm xe Tiên đế.
Trước trại rèm hùng sịch mở, phòng thuộc ngẩn ngơ chiều;
Trong thành cờ lệnh truyền sai, bà con ngao ngán nhẽ.
Nha trù chia của, nỡ nào quên cậu chị tơ già;
Gái đẹp thân sang, nỡ lãng quên đàn con non trẻ.
Nguồn cơn không bề tính cho xuôi;
Cơ sự dễ ai hay đặng nhẽ!


Năm 1795, thái sư phụ chính Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, chém Lê Văn Hưng, đày Lê Văn Kỷ ra Hoàng giang làm dịch trạm, điều Vũ Văn Dũng ra Bắc. Theo lời khuyên của Trần Văn Kỷ, Vũ Văn Dũng quay trở về Phú Xuân cùng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn làm đảo chính, bắt nhốt Bùi Đắc Tuyên, sai người vào Quy Nhơn bắt Bùi Đắc Trụ con Tuyên, đưa về Phú Xuân. Lại sai đô đốc Hải ra Thăng Long, giả chiếu Nguyễn Quang Toản sai Bắc thành Hoàng đệ Nguyễn Quang Thuỳ lừa bắt Ngô Văn Sở đưa về Phú Xuân, Vũ Văn Dũng cùng phe đảng thêu dệt thành tội phản quốc, bỏ vào cũi sắt dìm xuống sông Hương cho chết hết. Đương thời có người làm bài văn này tế Ngô Văn Sở. Bài văn viết bằng chữ Nôm chép tay trong tập Minh đô sử, sau phần sự tích Vũ Văn Dũng.