Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ dân gian » Vè, đồng dao
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu,
Phú ông xin đổi một xâu cá mè.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè,
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi,
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Thằng Bờm ‡ cầm cái quạt mo,Có bản còn chép thêm hai câu sau ở cuối:
Phú ông xin đổi ba ‡ bò chín trâu.
Bờm rằng: Bờm chẳng ‡ muốn trâu,
Phú ông xin đổi ‡ con hầu cầm roi.
Bờm rằng: Bờm chẳng ‡ muốn roi,
Phú ông xin đổi ‡ con voi chín ngà.
Bờm rằng: Bờm chẳng ‡ muốn ngà,
Phú ông xin đổi toà nhà gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng muốn lim,
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng: Bờm chẳng ‡ muốn mồi,
Phú ông xin đổi ‡ cục xôi, Bờm cười.
Cười lên ba tiếng Bờm ơi,
Cười lên ba tiếng cho đời đắng cay.
Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/03/2016 16:11
Tiếng cười trong văn học dân gian vô cùng phong phú và đa dạng. Có nụ cười mỉm, có tiếng cười hả hê. Có tiếng cười giễu cợt, châm biếm sâu cay. Có tiếng cười đả kích sắc nhọn… Thật là đủ cung bậc, biểu lộ tất cả thái độ ứng xử của nhân dân lao động trong cuộc đời. Tiếng cười là vũ khí chiến đấu tinh thần của những con người bị áp bức, nó tựa như làn roi quất vào mặt bọn thống trị xấu xa, đồi bại nhưng lúc nào cũng lên mặt đạo đức giả. Tiếng cười không chỉ để mua vui, xua tan tất cả ngột ngạt mà còn biểu thị một thái độ, một tâm thế của người lao động. Cho nên nó giàu chất trí tuệ, có giá trị vạch trần và tố cáo hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội cũ.
Ngoài truyện tiếu lâm, truyện cười, văn học dân gian còn có nhiều bài ca dao trào phúng, hóm hỉnh, sâu sắc, thú vị. Bài “Thằng Bờm” là một ví dụ tiêu biểu. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan vừa xếp bài ca dao “Thằng Bờm” là một ví dụ tiêu biểu. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan vừa xếp bài ca dao “Thằng Bờm” vào loại ca dao trào phúng chống phong kiến mang ý nghĩa như một truyện ngụ ngôn độc đáo:
Thằng Bờm có cái quạt mo,Cấu trúc của bài ca dao như một chuyện vui, dựng lại cuộc đối thoại, đổi chác đầy tính giễu cợt. Một bên là Phú ông, một bên là thằng Bờm. Phú ông là bọn nhà giàu nứt đố đổ vách trong nông thôn ngày xưa. Thằng Bờm thuộc tầng lớp khố rách áo ôm trong xã hội cũ. Trong ý niệm của người đời thì thằng Bờm không phải là loại người thông minh, sắc sảo, mà có chút gì đó hơi “ngớ ngẩn”. Vì thế câu chuyện được kể lại trong bài ca dao mang tính kịch một cách hóm hỉnh, hấp dẫn.
Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
… Phú ông xin đổi ba bò, chín trâuThông thường trong mua bán đổi chác bao giờ cũng “thuận mua, vừa bán”. Nếu bên bán chưa đồng ý với giá mua, thì người mua cứ trả giá tăng dần lên cho đến lúc ngã giá. Nhưng ở đây, Phú ông cứ giảm giá dần, giọng nói thì vẫn tha thiết, ngọt ngào “xin đổi”, ngược lại giá trị vật đổi từ “ba bò chín trâu” sau 5 lần “xin đổi” chỉ còn lại “nắm xôi” bé nhỏ! Thái độ của Bờm cũng rất lạ! “Ba bò chín trâu”, Bờm chẳng lấy! Ao sâu cá mè, một bè gỗ lim, con chim đồi mồi - Bờm cũng chẳng lấy! Thế rồi Bờm cười khi được Phú ông xin đổi nắm xôi… Phải chăng Bờm ngớ ngẩn, dại khờ trong cuộc đổi chác?
… Phú ông xin đổi ao sâu, cá mè,
…Phú ông xin đổi một bè gỗ lim,
…Phú ông xin đổi con chim đồi mồi,
… Phú ông xin đổi nắm xôi…
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/03/2016 16:12
Trong kho tàng ca dao Việt Nam, Thằng Bờm là bài ca dao rất phổ biến, có lẽ trẻ già, bé lớn đều thích, đều thuộc. Mỗi người có sự cảm thụ khác nhau về cái hay của bài ca dao độc đáo này. Dưới đây xin được góp thêm một cách cảm nhận về bài ca dao Thằng Bờm.
Bài ca dao ra đời trong xã hội phong kiến, phản ánh những mâu thuẫn giữa bọn địa chủ bóc lột và người nông dân nghèo khổ. Và Thằng Bờm không thể hiểu đơn giản là một đứa bé nhà quê mà là hình ảnh tượng trưng cho cách ứng xử của người nông dân xưa với bọn phú ông gian xảo. Thằng Bờm mang dáng dấp một truyện ngụ ngôn, chứa đựng triết lí sống của người nông dân trong xã hội phong kiến.
Ngày ấy,giai cấp thống trị, bóc lột luôn xem người nông dân khờ dại và ngu dốt, rất dễ bị bắt nạt, lừa gạt. Nhưng qua bài Thằng Bờm, cha ông ta đã minh chứng cho điều ngược lại. Họ có thể là thiếu tiền, thiếu học nhưng không hề thiếu vốn sống, thiếu sự khôn ngoan, thông minh trong ứng xử với bọn Phú ông.
Đọc Thằng Bờm ta như nghe một câu chuyện vui đầy kịch tính.
Nói đến thằng Bờm, ta dễ liên tưởng đến một đứa bé con nhà nông dân, một đứa bé hồn nhiên chất phác. Thằng bé chỉ có một món tài sản thô sơ, quê mùa, chỉ là cái quạt mo, nhưng là thứ cần thiết và đắc dụng trong mùa hè. Trẻ em khi đọc bài này, nhiều em cứ ngỡ cái quạt ấy là cái quạt thần, quí báu lắm. Nhưng thật ra, đó chỉ là cái quạt mo cau bình thường - mà mo cau thì rụng đầy đường làng ngõ xóm. Rất dễ dàng làm cái quạt mo nếu chịu bỏ ra chút công sức. Nhưng Phú ông thì muốn có mà không muốn bỏ ra công sức. Bọn chúng có muốn chừa cho người nghèo cái thứ gì! Hành động xin đổi của phú ông chính là thực hiên âm mưu chiếm đoạt ấy.
Hãy thử tưởng tượng, trong một buổi trưa oi nồng, thằng Bờm ngồi phe phẩy quạt mo dưới bóng tre xanh, thật mát mẻ và khoan khoái! Tình cờ lão Phú ông đi ngang, và thấy, và thèm muốn cái quạt, thế là lão nảy ra ý định chiếm lấy cái quạt của thằng bé. Chắc lão nghĩ rằng, lừa một thằng bé mà có khó gì. Lão đã chẳng lừa được bao nhiêu người khôn ngoan khác trong đời lão rồi đấy thôi. Vậy là lão lên tiếng:
Thằng Bờm có cái quạt moPhú ông đã dùng vật chất để dụ dỗ lòng tham của Bờm. Hắn quá biết rằng “Dưới cái mồi thơm tất có con cá chết”. Nhưng rồi hắn ngỡ ngàng. Thằng Bờm đâu dễ bị lừa gạt. Cái mồi thơm “Ba bò chín trâu” ấy không làm Bờm mê đắm. Nó cũng học được lời răn dạy cuả cha ông, đừng nên “thả mồi bắt bóng”. Vì thế Bờm đã lắc đầu và trả lời bằng một câu nói nhỏ nhẹ mà dứt khoát:
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu.Lão Phú ông chắc đã tưng hửng vì bất ngờ. Nhưng lão đâu có chịu thua, lão khôn róc đời, không dụ được cái này, thì ta dụ cái khác, thế nào mà chẳng có cái làm thằng bé mê tít:
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.Nhưng rồi sau bốn lần thả câu, món mồi cứ thay đổi ngày càng ít hơn nhưng cụ thể hơn, thiết thực hơn mà thằng
Bờm vẫn thản nhiên lắc đầu:Hãy tưởng tượng cái vẻ ung dung, có dáng bề trên của Bờm và cái vẻ xun xoe, ngon ngọt của kẻ dưới là phú ông mà thấy hả hê vì sự chín chắn, khôn ngoan của nó. Phú ông lúc này vẫn kiên nhẫn,vẫn nhún nhường, nài nỉ, xin đổi cho bằng được cái quạt mo.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi.
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.Nụ cười của Bờm mới đẹp làm sao. Xin đừng nghĩ rằng mọi việc đã ngã ngũ, Bờm đã đồng ý chịu đổi. Bờm chỉ cười thôi mà.
Thằng Bờm có cái quạt moXin hãy giữ lại nụ cười của thằng Bờm trong tâm hồn chúng ta để mà hả hê, mà thán phục, mà quí trọng một bài học ngụ ngôn của cha ông ta gửi cho con cháu đời sau qua bài Thằng Bờm: Hãy sống đơn giản và chân thật, đừng tham lam thả mồi bắt bóng mà bị bọn gian ác, xấu xa lừa gạt. Bài học ấy hẳn vẫn còn giá trị trong thời buổi kinh tế thị trường hôm nay!
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/03/2016 16:15
1. Bài ca dao “Thằng Bờm” như sau:
Thằng Bờm có cái quạt moĐây có thể được xem là một trong số những bài ca dao hay nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chỉ là một câu chuyện kể bằng thơ, vậy mà nó có “sức sống lạ kỳ” [4, tr.6], vượt qua thử thách khắc nghiệt của thời gian, gây ra những cuộc tranh luận, làm tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, trong các công trình của những học giả đi trước chưa có ai tìm hiểu, lí giải bài ca dao này từ góc nhìn của lí thuyết giao tiếp. Bài viết của chúng tôi thử tìm hiểu bài ca dao “Thằng Bờm” từ góc độ của lí thuyết này.
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi cục xôi Bờm cười.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/03/2016 16:18
Bài ca dao Thằng Bờm lâu nay vẫn được giới nghiên cứu văn học và tiếp cận từ góc nhìn quan hệ trao đổi vật thể không ngang giá để đi đến nhận xét về tính gàn dở hay tâm lý thiết thực, thiển cận của Bờm - đại diện cho con người tiểu nông. Chúng tôi cho rằng góc nhìn này là dễ dãi và chưa thoả đáng vì nó dừng lại ở bên mặt sự vật và hiện tượng, chưa cho phép ta khám phá những đặc trưng văn hoá mang tính bản sắc trong thái độ của Bờm và của Phú ông. Trong bài viết này, chúng tôi thử đề xuất một cách nhìn mới, một cách đánh giá khác về bản chất văn hoá của cuộc thương lượng thú vị này.
I - Cái quạt mo - một siêu giá trị
Khi nghe nói đến Cái quạt mo, ta thường nghĩ ngay đến giá trị sử dụng bé nhỏ của nó, bé đến mức gần như vô giá trị. Vô giá trị vì nó sẵn quanh ta trong môi trường xã hội nông nghiệp, nó là vật phế thải của thiên nhiên mà người nghèo đến đâu cũng có. Vì thế, khi Phú ông đem những vật có giá trị sử dụng lớn như ba bò chín trâu, ao sâu cá mè, một bè gỗ lim,v.v ra đổi, ta thấy phi lý buồn cười. Ta cười là bởi vì ta chỉ nhìn cái quạt mo của Bờm và trâu, bò, gỗ, cá... của Phú ông như những giá trị sử dụng có thể cân, đo, đong, đếm và sử dụng vào sản xuất hay sinh hoạt. Nhưng nếu như ta nhìn những thứ này như những đối tượng văn hoá - những kỷ vật, những biểu trưng... thì ta sẽ thấy đồng cảm với Bờm trong sự kiên định giữ lấy cái quạt mo, giữ bằng mọi giá.
Thực ra thì cuộc trao đổi có vẻ phi lý và hài hước đã và đang diễn ra trên thị trường văn hoá phương Tây. Chúng ta chẳng bật cười khi thấy người ta đấu giá trả đến mấy triệu đô-la để mua một cái khuy áo hay một kỷ vật của danh hài nào đó? Ta bật cười vì ta còn mang cái nhìn thực dụng tiểu nông, chưa hiểu siêu giá trị của cái sản phẩm văn hoá và chưa hiểu siêu lợi nhuận của ngành kinh doanh văn hoá. Các nhà tỷ phú chẳng dại gì ném tiền qua cửa sổ. Họ bỏ tiền ra để mua một kỷ vật của bác học Einstein hay Công nương Diana nếu không phải để nâng cấp bộ sưu tập hay bảo tàng của mình thì cũng để nâng cấp văn hoá và quyền lực đầu tư của mình nhằm tới một cái đích vô giá. Phú ông trong bài ca dao Thằng Bờm cũng vậy thôi - ông ta tìm mọi cách mua cho được “cái quạt mo” không phải vì ngớ ngẩn, hay tham lam mù quáng như nhiều người đã phân tích, mà vì hắn muốn sở hữu cái quạt mo - biểu tượng của nhân vật Bờm, bản ngã văn hoá của Bờm. Bài ca dao chỉ nói thằng Bờm có cái quạt mo không nói nguồn gốc và tính chất của cái quạt mo này. Nhưng không loại trừ cái quạt mo là một kỷ vật thiêng liêng của cha ông để lại, hay một chiến lợi phẩm từ sự thất bại nhục nhã của Phú ông trong thuở hàn vi mà Phú ông muốn phi tang. Và dù cho cái quạt mo ấy chỉ là một vật dụng bình thường mà Bờm quyết giữ, thì nó cũng mang chứa đặc trưng nhân cách của Bờm, tước đoạt được nó là tước đoạt được một cách tượng trưng ý chí và bản lĩnh kiên định của Bờm, và biết đâu đó lại là cách Phú ông dùng của cải khuất phục được tên nông dân nổi danh cứng đầu cứng cổ, từ đó khuất phục số đông? Nghĩa là, cái quạt mo không còn là cái quạt mo - nó chính là biểu trưng của nhân cách, lịch sử và ý chí. Nỗ lực của Phú ông thực chất là nỗ lực tước đoạt bản ngã văn hoá của những nông dân nghèo khó như Bờm.
Nếu là cuộc trao đổi thực dụng thì Phú ông không thể đấu giá với chính mình theo cách kỳ quặc như ta đã thấy. Phú ông tự đặt ra giá cao rồi giảm dần xuống từ ba bò chín trâu, hạ xuống nắm xôi. Đó không phải là lôgic đấu giá hay mặc cả. Đó là lôgic của tiếp biến văn hoá. Phú ông đổi từ ba bò chín trâu sang ao sâu cá mè rồi sang một bè gỗ lim không phải là sự hạ giá hay đổi thay giá trị trao đổi, mà chỉ là một cuộc trình diện cụ thể rất khác nhau về ý nghĩa và giá trị trong tương quan văn hoá.
Trong tư cách là những vật cụ thể thì những vật trao đổi Phú ông đưa ra là bình đẳng về giá trị trong tiêu chí cảm tính của người Việt. Thái độ cụ thể là một thái độ khá đặc trưng của người Việt - cùng là một nắm xôi, một miếng ăn, nhưng đặt trong thời gian và không gian cụ thể nó mang các giá trị khác nhau miếng khi đói bằng gói khi no, miếng giữa làng bằng sàng giữa chợ, lời chào cao hơn mâm cỗ, miếng ăn là miếng nhục, đánh nhau chia gạo chào nhau ăn cơm,v.v. Với người Việt không có một công thức chung cứng nhắc, giáo điều hay một thứ cẩm nang bảo bối! Nội dung tính chất, giá trị của sự vật được người Việt kiểm chứng trong các quan hệ cụ thể, để “tuỳ”, “lựa”, “liệu” rất linh hoạt và linh ứng. Từ tâm thức văn hoá đó đẻ ra cách mặc cả kỳ quái như của Phú ông, đem cái cụ thể này đổi lấy cái cụ thể khác để kiểm chứng nhu cầu cụ thể của Bờm. Nói Phú ông tiếp biến văn hoá là theo nghĩa đó. Song, sự tiếp biến văn hoá của Phú ông không hề là sự hạ cấp giá trị trao đổi. Xét từ góc độ giá trị văn hoá và sự tôn trọng thì cách thoả thuận của Phú ông là ngày càng đưa Bờm lên một bậc giá trị cao hơn. Nếu như ba bò chín trâu là tư liệu sản xuất, thì ao sâu cá mè là thực phẩm, bè gỗ lim là vật liệu xây dựng, chim đồi mồi là thú ăn chơi đài các và nắm xôi là đồ thờ cúng, là thức ăn lễ Tết. Rõ ràng là qua cách đổi thay vật trao đổi, Phú ông vừa tiếp thị văn hoá, vừa nâng cấp thân phận của Bờm. Lúc đầu Bờm chỉ được Phú ông coi là kẻ vai u thịt bắp, cày ruộng chăn bò hay là kẻ lái trâu, sau đó Bờm được coi như con người, đã đến lúc lo việc xây dựng cơ ngơi, rồi lại nâng cấp Bờm lên con người biết ăn chơi đài các như ai, và cuối cùng mức cao nhất là nâng Bờm lên một người ăn thức ăn thanh cảnh trong lẽ Tết. Lôgic cư xử của Phú ông là ngày càng tỏ ra coi trọng Bờm, lịch sự với Bờm, đặt Bờm xa dần những tương quan vật chất thô lậu để đưa Bờm vào cương vị quý tộc có chim đồi mồi và biết quý nắm xôi hơn cả trâu bò, nhà cửa. Nghĩa là, bằng sự mặc cả theo lôgic nâng cấp thân phận, nâng cấp giá trị văn hoá đó, Phú ông đã giải phóng Bờm khỏi thân phận nông dân trong các quan hệ kinh tế sản xuất để đưa Bờm vào không gian văn hoá, môi trường giá trị văn hoá. Và nếu như ta đã từng bán nhà, bán cửa, bán trâu bò để giành lấy một thanh danh, một “miếng giữa làng” thì sao Bờm lại không thể đổi quạt mo lấy nắm xôi kia, nhất là khi nắm xôi được đưa ra trong tư cách phủ định trâu bò, nhà cửa?
II - Nụ cười của Bờm, một bản lĩnh nước đôi
Khả năng giải mã một văn bản là vô tận và mỗi cách tiếp cận, lại có nhiều góc nhìn khác nhau, mỗi góc nhìn khác nhau lại có nhiều công cụ và thao tác khác nhau.
Khi giải mã lôgic trao đổi giữa Phú ông và Bờm theo hướng tìm kiếm một lôgic văn hoá như đã trình bày ở phần trên, chúng tôi mong mã số mới này bao quát cả nụ cười của Bờm ở câu cuối của bài ca dao. Nhưng với một sự thận trọng cần thiết, chúng tôi muốn phân tích sâu nụ cười nước đôi, đi vào hai hướng khác nhau giả định hai ý nghĩa khác nhau để đi đến kết luận rằng: nụ cười của Bờm là chấp thuận hay từ chối thì lôgic ngầm đã phân tích ở phần trên vẫn không sụp đổ.
1. Nụ cười chấp thuận.
Theo lô gíc thông thường vì được nâng giá văn hoá và được cải thiện thân phận qua những lần Phú ông mặc cả, Bờm cười và chấp thuận. Nụ cười của Bờm đã được hầu hết các nhà phân tích coi là nụ cười chấp thuận, nhưng lại nói bản chất sự chấp thuận này là cái nhìn thiết thực thiển cận. Theo hướng giải mã của chúng tôi thì nụ cười này của Bờm lại là nụ cười chiến thắng, nụ cười của kẻ mạnh vì Bờm đã được Phú ông liên tục “xin đổi” một cách năn nỉ và trân trọng, hơn thế nữa ngày càng đưa ra những vật đổi thanh cao. Quá trình thay vật trao đổi cũng là quá trình thanh cao hoá, tượng trưng hoá và song song với nó là quá trình Phú ông từ chỗ huênh hoang, cậy của trở thành kẻ thành tâm. Như vậy là Phú ông lại xoay như chong chóng trước một cái lắc đầu duy nhất của Bờm và cuối cùng phải thay đổi thái độ. Đó là sự chiến thắng của Bờm. Sự chiến thắng này là chiến thắng về văn hoá, vì trong quan hệ quyền lực và quan hệ cạnh tranh kinh tế không thể có chuyện kẻ mạnh về gạo bạo về tiền như Phú ông phải xoay xoả năn nỉ Bờm như thế. Chỉ có thể hiểu sự bất lực cay cú của Phú ông từ góc nhìn văn hoá. Khát vọng chinh phục, khát vọng đồng hoá là một khát vọng không dễ gì thoả mãn bằng tiền của và bạo lực. Sự kiên định bản ngã văn hoá tạo nên sức mạnh “phú quý bất năng di” của những người nông dân nghèo khổ. Suy rộng ra sự kiên định của Bờm cũng chính là sự kiên định của bản lĩnh văn hoá kiểu Việt Nam.
2. Nụ cười từ chối
Nụ cười của Bờm nếu hiểu là nụ cười từ chối thì lôgic văn hoá của cuộc trao đổi vẫn không vì thế mà bị sụp đổ, trái lại được khẳng định rõ hơn. Bờm vẫn có thể từ chối một ngôi vị văn hoá càng ngày càng cao mà Phú ông đã đưa tới cho Bờm vì bản lĩnh của Bờm là một tự do bên ngoài những liên kết ấy. Khát vọng của Bờm chỉ là được là chủ nhân của cái quạt mo, khát vọng ấy là một nhu cầu tinh thần mang tính triết học mà ngay cả những giá trị tinh thần cũng không thể trao đổi được dù Bờm có được Phú ông phong Thánh hay dù ai đó có quyền lực đặt Bờm vào ngôi Vua như trong truyện cổ tích thì Bờm vẫn không thể đánh đổi cái quạt mo, lấy những ngôi vị cao quý đó, đơn giản chỉ vì Bờm yêu cái quạt mo gắn bó và thuỷ chung với nó. Logic của tình yêu là như vậy. Người nông dân Việt Nam trong cổ tích và ca dao đã luôn ca ngợi những đức tính thuỷ chung:
Chồng em áo rách em thương,Bài ca dao Thằng Bờm, cũng có thể là một bài ca dao ngợi ca đức thuỷ chung tình nghĩa của con người đối với đồ vật của mình. Với đồ vật cũng gắn bó như vậy thì với con người còn gắn bó đến mức nào.
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/03/2016 16:21
Cổ nhân nói: “Phàm làm việc gì, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó”. Sự thận trọng của thằng Bờm ấy thế mà khôn! Tiếng cười dễ dãi của thằng Bờm cũng tinh ranh lắm! Và giá trị của thằng Bờm là đã biết dừng đúng lúc ở một cuộc trao đổi cân bằng.
Cuộc giao dịch của Bờm lương thiện mà cũng rất sòng phẳng, làm đúng khả năng, hưởng đúng nhu cầu. Nếu nó khởi lòng tham thái quá, nó sẽ rơi vào thế lực của những kẻ bóc lột. Thằng Bờm có hơi thiếu lòng tham bẩm sinh của con người, nhưng nó làm chủ được mình trước những lời mật ngọt, dụ dẫn vào vòng xoáy tham lam.
Bờm dốt hay Phú ông dốt?
Có một nhân vật của dòng văn học dân gian mà gần như ai cũng nhớ tên, đó là “Thằng Bờm”. Không biết tự bao giờ, nhân vật ấy lại được người ta dùng để châm chọc cho tính cách khờ khạo của một ai đó. Và thằng Bờm “khờ” như đến thế này là cùng:
Thằng Bờm có cái quạt moCái dại, cái khờ khạo của thằng Bờm là đã không chịu đáp ứng sự đổi chác quá chênh lệch của lão Phú ông. Phú ông đổi những cái có giá trị, thì Bờm cứ... “chẳng lấy”. Đến khi Phú ông đổi nắm xôi, thì... Bờm cười. Cười thôi, chẳng biết rõ là đồng ý hay không. Bờm khờ khạo hay lão phú ông khờ khạo?
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.