Bà con cô bác,
Lẳng lặng mà nghe!
Tôi nói cái vè,
Cái vè sai đạo,
Danh vi trấp bảo,
Vụ dĩ an dân.
Khâm sai đại thần,
Kéo vô Đà Nẵng.
Tướng quân đều sẵn,
Tán lý tán tương;
Chú Bang chú Thương,
Chú Đề chú Lãnh.

Quân hùng tưởng mạnh,
Các đội các cơ.
Gióng trống mở cờ,
Kéo vô tỉnh cũ.
Phân quân vừa đủ,
Phát vãng thượng du.
Thác cá, Rập cu,
Đôi đường tiến tiễu.
Nhất thời phương liệu,
Văn miếu đồn binh.
Ai thấy cũng kinh,
Gọi Khâm sai giỏi.
Kêu dân tới hỏi:
Rằng Nghĩa đã tàn.
Hạnh hoặc tương an,
Thị vi thịnh sự.
Sau lên Phong sử,
Nghĩa dũng tứ vi.
May chẳng hề chi,
Nhờ ba chú Pháp.
Thâu qua Yên Giáp,
Trở lại La Thành.
Từ ấy thất kinh,
Vừa làm vừa sợ.
Tướng chi, tướng dở,
Vị luyện quân tinh.
Chẳng có Tây binh,
E không khỏi chết.
Chước chi cũng hết,
Năm ngoái năm ni,
Làm chẳng ra chi,
Lại thêm ăn bậy.
Lũ quân đi lấy,
Các tướng về chia.
Thôi đã tràn đìa,
Cái chi chẳng xách.
Cái quần đã rách,
Cái áo tả tơ,
Cũng dành cũng quơ,
Huống chi cái khá;
Kẻ thì đào mả,
Thằng lại phá nhà.
Những chó những gà,
Những heo những vịt.
Bắt mà ăn thịt,
Lại bán lấy tiền.
Đem về Thừa Thiên,
Nghĩa, Bình, Quảng Trị,
Thậm vi khả bỉ,
Quân lệnh Khâm sai!
Thiên hạ ai ai,
Chớ tin mà mắc.
Thác từ đánh giặc,
Hại ngã lê dân.
Thiên địa quỷ thần,
Nguyện kỳ chiếu giám.
Nói càng thêm thảm,
Chẳng biết làm sao.
Hiệu lệnh dường nào,
Quân gia đến thế!
Hà mưu hà kế,
Hà lự hà tư?

Viện những đồ hư,
Để đi ăn giựt.
Bợm nào đắc lực,
Tiến chức tiến quan,
Lớn bé một đoàn,
Vô sở bất chí.
Nhân dân nghị, nghị,
Thuỳ lạc chi tùng.
Sự thế nhật cùng,
Quảng Nam ở lỗ,
Trời làm chi khổ,
Thất đảo bát điên.
Nói lắm cũng phiền,
Như tư nhi dĩ.


Năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, bù nhìn Đồng Khánh được Pháp dựng lên làm chiêu bài chính trị để mua chuộc lòng người. Nhưng chỉ mua được bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ, Lê Hoan, Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc,… chớ người chân chính hỏi ai mà không hiểu dã tâm bè lũ chúng. Vì thế phong trào kháng chiến đã nổi lên khắp nơi suốt từ Nam chí Bắc. Trong ấy, các thân hào ở Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định có lập ra nghĩa hội do các ông Trần Văn Dự, Nguyễn Tự Như, Trương Đình Hội, Nguyễn Phạm Tuân cầm đầu. Triều đình Đồng Khánh và thực dân Pháp cử tên bán nước Nguyễn Thân làm Khâm sai đi dẹp, khoa trương thanh thế là tiễu trừ giặc loạn để an phủ nhân dân. Nhưng dấu đầu hở đuôi, bọn chúng đã an phủ thế nào, chúng ta hãy đọc bài vè Khâm sai này đủ rõ những hành động của chúng.

Bài này thường được gọi là Vè khâm sai, không biết tác giả là ai, nhưng ở các tỉnh nói trên có nhiều người nhớ, như vậy đủ biết tác dụng nó thế nào.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]