Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Văn Giai
Đăng bởi tôn tiền tử vào 09/08/2020 01:05
1. Tiết mạnh hạ hiên nam ngồi mát;
Chuyện Thăng Long điển mạt kể ra.
Bao nhiêu nông nỗi tỉnh Hà,
Hai lần phân nhiễu biết là làm sao?
5. Năm Quý Dậu tàu vào vừa tới,
Người Bắc Kỳ rằng mới biết Tây.
Rủ nhau xem sóc đêm ngày,
Đem quân về đóng ở rày trường thi.
Tờ niêm yết Ngạc-nhi Yên-nghiệp,
10. Đường giao thông tiến tiếp lại qua.
Xa nghe đồn tỉnh Bắc Hà,
Giặc Tàu quấy rối, vậy mà đến chi?
Các quan tỉnh nghi nghi hoặc hoặc,
Những bàn riêng rằng giặc đến chân.
15. Tháng mười mồng một giờ Dần,
Ầm ầm hạ tỉnh là lần ngày xưa.
Khi ấy có khâm thừa họ Nguyễn,
Cha con đều ngộ biến thất cơ,
Phò Lâm mắc nạn bấy giờ,
20. Cha già tuyệt thực còn chờ quyên sinh.
Các quan sau quyết tình lên Thứ,
Ông Tham Tôn tức sự khởi hành.
Đem quân về đóng Diễn, Canh,
Nhơn nhơn thu phục tỉnh thành về ta.
25. Chốn Thăng Long thật là thượng đẳng,
Xui tướng Tây quyết thẳng tiến truy.
Thất cơ phải chú Hắc kỳ,
Ngoại ô một trận, Ngạc-nhi qua đời.
Khách các hiệu rụng rời giáo giác,
30. Dọn vần tay đồ đạc xuống tàu.
Giữa dòng chiếc trước, chiếc sau,
Ra ngoài Ninh, Hải để hầu về Nam.
Quan thừa thắng diện bàn tướng sĩ,
Bất thình lình có chỉ kinh ra.
30. Chuộc thành mà lại giảng hoà,
Định, An-Ninh-Hải với Hà Nội đây:
Quan Hoàng thống nghe rầy bứt rứt.
Lưu Hắc kỳ kéo phứt lên Ngâu.
Phả ngang việc ấy bởi đâu?
40. Nhà công xế bóng, cửa chầu long then.
Sai quan Nguyễn Văn Tường, chánh sứ,
Hoắc-đạo-sinh thử thứ là đây.
Quan nam với lại quan Tây,
Sửa sang khi ấy, dân rày được yên.
45. Việc xong cả, chỉ truyền về bộ,
Quan Nguyễn Tường thăng Hộ thượng thư.
Qua năm Giáp Tuất tháng tư,
Thấy quan Nguyễn chánh phụng từ kinh ra.
Điều niêm yết mới: hoà ước đó;
50. Ngẫm kỹ xem thật khó nghe thay.
Non sông cao rộng thế này,
Nào người trí dũng, nào tay anh hùng?
Quan Tăng Doãn rằng: vâng thánh chỉ,
Tỉnh Hải Dương lãnh ý phải ra;
55. Quan Tư với lại Quan Ba,
Tìm nơi Hà Nội lập toà Trường Tây.
Thấy phố xá người dầy đất hẹp,
Nhà thứ dân rộn rịp chỉn khôn.
Thênh thênh sẵn chốn Thuỷ đồn,
60. Làm nhà ở cạnh Ô Môn Trường Tiền.
Khai thương chánh thu biền thuế thuỷ,
Cùng quan ta quản lý thâu chung.
Rồi sau mới lại ngoại sông,
Nhà cao ngất nghểu bên sông Nhị hà.
65. Quan Thượng tỉnh tên là Đình Túc,
Nghĩ tuổi già nhẫn nhục là xong.
Oán kia xếp để bên lòng,
Nói cười leo lẻo như dòng nước xuôi.
Ngoài thất thập, sớ đòi trí chức,
70. Quan quân đều thổn thức tiễn đưa.
Về nhà được mấy nắng mưa?
Câu thơ xuân nhật, cuộc cờ hạ thiên.
Đất Hà Nội là miền trọng yếu,
Lại sai ông Hoàng Diệu ra thay.
75. Vốn người nóng tánh lòng ngay,
Dũng cương chẳng biết đãi Tây như Trần.
Việc tỉnh vụ đương phần dóng dả,
Đánh thông ngôn làm hả nộ uy:
Mi là người ở nước ni?
80. Mần răng, chẳng giữ lễ nghi ngôn từ?
Nỗi nhà nước rối như mắc cửi,
Chừng gió Tây tầm gửi lấn ngành.
Lẽ đâu biết cũng làm thinh,
Dốc lòng ái quốc, nặng tình sự quân.
85. Từ Canh Thìn bước lần năm ngoái,
Sớ xây thành bên trại Vũ sinh.
Tập rèn lính tráng cho tinh,
Để khi sự bất thình lình làm sao.
Các cửa thành truyền rao cấm cách,
90. Giữ người Tây với khách vào ra.
Khi nào có việc nước nhà,
Đem đơn bẩm trước mới là được vô.
Lăng-sa thấy cơ đồ biết ý,
Mới hầm hầm thịnh khỉ kéo ra.
95. Giờ Thìn mồng tám tháng ba,
Hạ thành này nữa, ấy là thứ hai.
Quan Hoàng tổng quyết bài nhất chiến.
Lãnh binh Đường xử biến hoả công.
Đang khi súng bắn đùng đùng.
100. Lãnh binh, quan bố thế cùng trút ra.
Quan đốc bộ đường xa ngó thấy,
Cả tức mình vào lậy hành cung.
Rồi sau ra miếu Vũ công,
Buộc khăn tự tử vào vòng quyên sinh.
105. Quan Tuần phủ thất kinh khi nớ,
Đau lăng nhăng ba bữa lại lành.
Các quan tếch cả ra thành,
Lên đoài sang bắc tanh bành chạy tan.
Kể ngoài thành những quan nho nhỏ,
110. Tri phủ Hoài, huyện Thọ là ai?
Thọ Xương tếch những khi mai,
Đến trưa hôm ấy phủ Hoài cũng bon.
Quan đi cả mà còn thành luỹ,
Chạnh lòng người ngẫm nghĩ mà thương.
115. Kính thiên ngai ngự thiệp vàng,
Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu.
Các chùa miếu đâu đâu đấy tả;
Can gì Tây cũng phá tan tành?
Các pho trượng cũng chẳng linh,
120. Để Tây đem đốt ra hình true ngươi.
Kể chi hắn hại người đến thế,
Hạ thành rồi chẳng để cho xây.
Có người rằng: “Lũ Tây này
Khác Tây Quý Dậu nên rầy lăng nhăng.”
125. Dân xiêu bạt hỏi săn hỏi đón:
“Về đánh Tây có bọn nào không?”
Đồn quan Thống chế Hoàng công,
Hắc kỳ hợp với Sơn, Hưng cũng đồng.
Đang sắm sửa hoà công khí giới,
130. Tế cờ rồi ngài mới cất quân.
Người ta tấp tểnh nghe dần,
Bữa mai bữa mốt đại thần về đây.
Đỏ như mắt cá chày mong mỏi,
Tính ngón tay đã ngoại tháng ba.
135. Bỗng đâu có chỉ kinh ra,
Tỉnh biên Đình Túc giảng hoà với Tây.
Được hai bữa kéo ngay vào tỉnh,
Thấy kho tàng đinh sảnh sạch không.
Bàn nhau sớ tấu cửu trùng,
140. Thấy sao nói vậy đủ trong tình hình.
Kìa những kẻ học sinh của thánh,
Hễ làm trai phải gánh cương thường,
Ngán cho Tổng đốc họ Hoàng,
Đan tâm có một, cương thường không hai.
145. Hỡi những kẻ van hoài xuất thú,
Với những người mặt ủ hờn cơm,
Vì ai cũng dựa tiếng thơm,
Tiếc gì xuân nữa mà sờm sỡ ai?
Được mấy kẻ anh tài phải đạo,
150. Đều ăn cơm mặc áo trên đời.
Đến khi có việc tầy trời,
Trơ trơ chỉ thấy một người tận trung.
Trông thế cuộc não nùng đến thế,
Nỗi phố phường mới kể mà nghe.
155. Bằng nay xuân đã sang hè,
Thân này đóng cửa mà nghe sự đời.
Tỉnh Hà Nội những người phố, xá.
Chạy loạn Tây vất vả nghĩ thương.
Xách già ôm trẻ vội vàng,
160. Về quê ăn tuyệt tư lương sạch rồi.
Ở cũng cực ra thời cũng bực,
Tưởng bán buôn mà bức mọi bề.
Bằng ai có chợ có quê,
Tiện phương thương mại, tiện nghề diễn viên.
165. Cũng có kẻ quen miền phố xá,
Thói quê mùa bỡ ngỡ xưa nay;
Ra hài vào hán thế này,
Bây giờ lại phải dãi dầy tuyết sương.
Xưa chạy loạn nay đương chạy loạn,
170. Khúc ngày xưa, khác đoạn ngày nay;
Có quan đi giữ dẹp Tây,
Nay quan chẳng thấy, loạn này bao yên?
Rạng nghe đóng trên miền Day, Kẻ,
Mai lại nghe ở Vẽ ở Vòng.
175. Lại nghe mới bước đến Phùng,
Lại nghe ngài đóng về vùng Thanh Oai.
Nghe đồn tiếng rằng ngài Phủ Lý,
Huyện Nam Xang quan thuỷ đóng thuyền.
Đồn rằng ngài ở Tam Tuyên,
180. Hắc kỳ vừa tới, Thanh biền vừa qua.
Thôi thôi hẳn ngài đà đãi chí,
Hễ mà nghe thánh chỉ mần răng.
Cho nên việc phải dùng dằng,
Hết ngồi mà sợ, hết nằm mà lo.
185. Quan ta chứa các kho tiền thóc,
Mong làm hoà dở khóc dở van.
Sớ ra giục giã các quan.
Tây thì khảng khái biết bàn tính sao.
Thành thất thủ, xiềng trao già toả.
190. Phải lai kinh tra đả không tha,
Loanh quanh - ta lại với ta,
Kinh thiên Tây ở thế mà điềm nhiên.
Đồn Tàu khách sang miền Tây Bắc,
Làm rọ nhiều hẳn bắt đoan Tây.
195. Mấy mươi đinh kéo đến đây,
Những là mong mỏi mà rầy thấy đâu.
Hay các chú phá tàu Đông Hải,
Còn quay về đóng lại mới sang?
Mau mau cứu lấy Đại Nam,
200. Gạo đong hầu hết, khoai lang chẳng còn.
Lúa, ngô, gạo nếp bòn vơ sạch,
Vận Bắc Kỳ có bách hay không?
Sự hoà còn nói viển vông,
Một nhà ba chủ biết trông chủ nào?
205. Chuyện lúng túng làm sao thế ấy,
Mãi thế này những thấy bét be
Nực cười kể chuyện lè nhè,
Người cùng tìm chốn chở che qua ngày.
Đàn bà phải lấy Tây cũng bức,
210. Dẫu rậm râu mạnh sức cũng liều.
Người Nam lớn bé bao nhiêu,
Ở hầu làm thiếp cũng đều làm ăn.
Cô Thống sát, Thông năm vô số.
Vợ quan Tây, bà cố tran tran.
215. Võng đào chỉ thắm nghênh ngang,
Mới hôm nọ, đã ba quan tềnh tàng.
Phường bồi bếp nghênh ngang rạo phố,
Áo quần Tây tảng lố thông ngôn.
Chở tàu lên Hạc lập đồn,
220. Làm thêm thương chánh bán buôn cho nhiều.
Mảng nghe tiếng thiên triều đến quản,
Do Vân Nam mấy vạn kéo sang.
Bắc Ninh với lại Tuyên Quang,
Quảng Yên, Thái, Lạng vô vàn Thanh quân.
225. Xin cứu lấy nước Nam đành báo,
Có tờ tư thu gạo cho nhiều,
Thuận mua vừa bán thiên triều trả cho.
Sơn, Hưng phải làm kho chứa sẵn,
Lưỡng biên giang cứ thẳng kéo về.
230. Tỉnh thành cho chí chợ quê,
Những lo chết đói mà mê mẩn người.
Còn dũng tráng trêu người bặng nhặng,
Đời làm công thẳng thẳng lưng sơi.
Nghĩ buồn Nam Việt sự đời,
235. Những ăn hà tiện, để thời cho ai.
Nay Tây cậy có tài thiện thuỷ.
Đường sơn lâm hẳn bí kế thôi.
Tàu bè ngược ngược xuôi xuôi,
Hết Sơn, Hưng lại trở hồi Trường Tây.
240. Chú Khách cậy quán này thiện hộ,
Dòng Nhị hà hẳn đố dám qua.
Đi đâu quanh quẩn vậy mà?
Hết Lâm, Đoan lại Bảo Hà sông Ngân.
Hai bên cứ giữ nhau thế mãi.
Hay sợ hơi có phải hay không?
245. Bên lo trái phá, thần công,
Bên e cờ úp, thúng chồng đâm quay.
Hay đợi để tháng này tháng nữa,
Chờ bao giờ gặp gỡ mới hay.
Sao mà giữ mãi thế này?
250. Tây thì Hà Nội, Ngô rầy Sơn, Hưng.
Tính thấm thoát qua chừng nửa tháng,
Quít đỏ trôn còn nhẫn bao lâu.
Sao Cờ mọc đã ngang đầu,
Hồng mao với khách quan Tàu đi đâu?
255. Hãy nhất quyết đánh nhau một trận,
Để thử làm cho tận tình dân.
Đã hầu ngũ liệt tam phân,
Tam cương còn thiếu chữ quân trên đầu.
Lại một hẹn rằng sau tháng chín,
260. Quan Tàu về chẳng nhịn nữa đâu;
Chuyện như khất nợ với nhau,
Mấy mươi tháng nữa mới hầu được yên?…