Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/09/2023 19:08
Ngọc còn đợi giá;
Vàng chẳng lộn than.
Chốn cung cấm thực là nghiêm mật;
Sự gió trăng chi dám lan can.
Đội ơn bác mẹ sinh thành;
Bể yêu dấu lại càng trải truốt.
Nghĩ sự vợ chồng duyên kiếp;
Dạ ngổn ngang nên phải trình bàn.
Tôi nay:
Hổ chút phận hèn;
Mừng sinh cửa cả.
Tiết xuân vừa thủa trăng tròn;
Vườn cảnh đương thì hoa nở.
Sách có chữ “Khuê môn bất xuất”, đường nghĩa phương dạy bảo dám sai lời;
Lễ ghi câu “Túc dạ vô vi”, việc nữ tắc sớm khuya đành để dạ.
Sự duyên này dám tỏ nước non;
Nông nỗi nọ biết đâu nhạn cá.
Rộn rã mấy văn nhơn tài tử, tin ong sứ điệp, chửa từng khi trả mận gieo đào;
Mơ màng cân quốc sắc thiên hương, gối phụng chăn loan, còn đợi khách đưa thư ném quả.
Những ước:
Vui miền Khổng, Mạnh;
Đẹp phận Châu, Trần.
Duyên kết kẻ gối Ôn, màn Đổng;
Mối xe nên chỉ Tấn, tơ Tần.
Đấng anh hùng gặp khách thuyền quyên, mặc sức kẻ xôi kinh nấu sử;
Người thục nữ sánh chàng quân tử, cam lòng khi sửa túi nâng khăn.
Há có phải tham bùi xẻ ngọt;
Phó mặc ai nẩy mực cầm cân.
Vả bấy nay quả nhãn tiền tài, ngươi Thạch nọ đã từng đấu phú;
Nào mấy kẻ trần trung vật sắc: chàng Trần kia có lẽ trường bần.
Tưởng thế sự dám so hơn thiệt;
Ắt thiên duyên còn đợi xoay vần.
Đường liễu duyên đưa;
Cung trăng khách quyến.
Ấy vì ai tin nhạn dẽ đưa?
Bỗng thấy kẻ nhà nông tìm đến.
Người giắt mối, tin còn dìu dặt, lân la vừa lữa lữa, quen quen;
Kẻ đưa lời, tình tỏ vân vi, dan díu khéo vui vui thẹn thẹn.
Run rủi chi phấn lại pha son?
Man mác nhẽ thuyền chưa đỗ bến.
Lễ vấn tính phong phong mở mở, mở lại phong, chửa thấu rõ nguồn cơn;
Đường thông môi nợ nợ duyên duyên, duyên hay nợ, bởi vì ai xui khiến?
Cho nên nỗi:
Hoa kia ủ mặt;
Liễu nọ trau mày.
Con tạo hoá trêu ngươi quay quắt;
Mối cương thường trách kẻ thày lay.
Rừng nho, bể thánh có thiếu chi, mà nỡ để hồng ngâm cho chuột vọc;
Bà Nguyệt, ông Tơ sao lẫn mấy, mà hoài đem bột lọc để Ngâu vầy.
Tủi phận xui nên duyên kiếp ấy;
Vì ai nên nỗi nước non này?
Chốn tước bình đã thấu mấy lần, rặt rìu nơi lan thất lan phòng, há có phải hồng nhan bạc phận;
Cầu Ô Thước khiểm chi một dải, cách trở thủa hà đông hà bắc, sao chẳng cho bạch diện về tay.
Đã đành phận mười hai bến nước;
Chẳng tham nơi năm bảy trâu cày.
Nghĩ rằng:
Trái phận khôn ưa;
Cho duyên thế vậy.
Thề non nguyền bể hãy ghi lời;
Ăn bắc nằm nam chi học thói.
Duyên chàng Trịnh có phen gặp gỡ, đá vàng mong kết nghĩa Thục Vân;
Cửa họ Tô mặc khách ra vào, hương lửa dễ soi lòng Tiểu Muội.
Mặc cha mẹ định liệu dám sai lời;
Nọ chú bác tiếng tăm ngao ngán nỗi.
Kẻ xui giục tìm nơi trao truốt, song tôi nghĩ của đời người thế, giàu thấy đâu Đình Trưởng thủa mang vàng;
Người mỉa mai những tiếng nọ kia, song tôi nghĩ nghiên ruộng bút cày, khó ai phụ Mãi Thần khi gánh củi.
Đã đành canh cánh ở bên lòng;
Há có dửng dưng mà không nói.
Vậy phải:
Niềm riêng giãi tỏ;
Lòng thực kể tường.
Sự đấy đây gẫm xem nhường đuốc;
Việc phải chăng lấy đấy làm gương.
Giàu thú quê, chơn lấm tay bùn, duyên chẳng đẹp dễ ép dầu, ép mỡ.
Khó hàn sĩ, tai hiền mắt thánh, phận đã ưa chẳng cân nghĩa, cân vàng.
Chốn đất bằng một tiếng sấm vang, cửa Mông Chính ngựa xe đủng đỉnh.
Trong cửa Vũ ba từng cá nhảy, nhà Lưu Bình võng dá nghênh ngang.
Thế mới biết nông nhì mà sĩ nhất;
Gặp thời ra của có lại quan sang.
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ.
Chẳng tham ruộng cả ao sâu,
Tham vì anh tú rậm râu mà hiền.