Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 01/10/2023 15:10
(Hạn vần: Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao)
Trình mẹ có hay?
Nghĩ con không dại!
Phải kiếm tấm chồng;
Mới yên phận gái.
Đẹp lòng kia gặp gỡ là nên;
Thuận ý nọ lứa đôi cũng phải.
Mẹ suy bụng mẹ, sao yên gia thất mới đành;
Con nghĩ lòng con, cũng muốn cơ đồ được nới.
Tưởng con nay:
Vừa khi sen ngó;
Đương thuở đào tơ.
Đã mực phong lưu, yếm thắm quần hồng chi tha thướt;
Cũng thì trang điểm, môi son má phấn chi nhởn nhơ.
In màu bồ liễu chi xuân, đêm ngày giữ mực;
Hé cửa động đào chi nguyệt, năm tháng đợi chờ.
Bởi ai chểnh mảng;
Nên kẻ hững hờ!
Tin én đưa thoi, thấp thoáng bóng câu chi ruổi;
Khúc hoàng lọt tiếng, bâng khuâng hồn bướm chi mơ.
Chỉ e điều voi cái chi cười, thiệt công mà dại;
Những mắc tiếng chó con chi trách, thấy của liền vơ.
Thưa con nghĩ thế;
Xin mẹ nghe ra.
Cũng đôi chúng bạn;
Cũng một lứa trà.
Người sao có đã;
Con vẫn không mà.
Chắc thanh tĩnh tu đà nên Phật;
Dẫu chính chuyên thác cũng ra ma.
Sao kia còn có chàng Ngâu, sông Ngân đợi bắc cầu qua bến;
Trăng nọ vẫn nuôi chú Cuội, gánh mây che khép cửa trong nhà.
Xem vật loại cũng khuôn trời đất;
Ngắm chuyện đời mà để người ta.
Có hơi biết mùi đời cho son phấn;
Lại càng nồng sắc nước chi nguyệt hoa.
Mừng thuở gặp thì, tơ liễu chi chừng đôi tám;
Sợ khi quá lứa, quả mai chi rụng bảy ba.
Dẫu hèn dẫu sang, may có người yêu chi phận gái;
Ép dầu ép mỡ, xưa kia ai cấm chi duyên bà?
Xin mẹ bằng lòng;
Cho con vững dạ.
Muốn cho gái hiền;
Lấy được rể khá.
Những mong là sửa túi nâng khăn;
Nào thấy có gieo cầu ném quả.
Trách ông Tơ độc dữ làm chu;
Uẩy bà Nguyệt trêu người lắm tá.
Hẹn mười hẹn chin, mấy mặt thấy đâu;
Ngày một ngày hai, những lòng rắp đã.
Nhớ sông Hán rong chơi họp mặt, ngắm xem phận gái, vẻ vang thay rồng đã có vây;
Tưởng bến Tần vui thú dan tay, trông thấy chị em, sực nức chi lan nhường bén xạ.
Nghĩ ăn chẳng ngon, nằm chẳng ngủ, đêm những ngậm ngùi;
Chán lược biếng chải, gương biếng soi, ngày thêm buồn bã!
Lòng bác mẹ mong trăng tròn hoa nở, nỗi u tình biết tỏ với ai hay;
Tình chị em yêu áo sẻ cơm nhường, của vưu vật biết nào thương kẻ lỡ.
Vậy nên con muốn:
Bằng chị bằng em;
Có đôi có lứa.
Nhẽ đâu ở mả chi mèo lành;
Cũng muốn húc rào chi dê sữa.
Chớ oẻ hoẹ bà già chi lên mặt, những là kén cá chọn canh;
Để dở dang con trẻ chi ngang lòng, thôi lại già lừa hoá ngựa!
Không trách kẻ nương dâu chi đứng, nghĩ như kẻ ấy cũng thêm buồn;
Cũng thấy ai cống giá chi ngồi, có bận ai đâu mà lại ngứa?
Mẹ chớ nghe mười voi không bát sáo, từ lúc gối quỳ tay liễm, lâu ngày tính khó chịu thay;
Con dại nghĩ trăm lợn cũng khúc lòng, e khi lửa bén rơm gần, một giờ dễ hay dữ chửa.
Con vẫn biết:
Trai khôn trăm nết;
Gái dại bảy nghề.
Xuân tâm chợt động;
Xuân sự chưa hề.
Vẫn gối phượng chăn loan chi chờ đợi;
Nào tin ong sứ bướm chi đi về.
Đã hay đưa mận giả đào, cớ sao kẻ dài môi chi dè bỉu;
Dẫu có nụ cà hoa mướp, khéo những người nỏ miệng chi gớm ghê!
Thôi mẹ đừng cấm chợ ngăn sông, sá quản người đời chi mai mỉa;
Để con liệu nhổ sào qua bến, tha hồ miệng thế chi cười chê.
Phương tri:
Trời đã sinh định người có thì;
Mẹ cũng muốn cho con được sớm.
Hễ lấy đừng chê, chê đừng lấy, khỏi mang lời đứa chi kêu;
Sao nên chẳng gặp, gặp chẳng nên, lại phải tiếng người chi nhảm.
Đã lắm lúc bực mình chi trê đẻ, vì đường kinh kỷ lại khuây;
Cũng nhiều phen sạn mặt chi đá trơ, không lẽ quyền nghi chút tạm.
Phỏng lấy trước tơ tơ chi con gái, thoảng trông người cũng đã yêu;
Ngô theo sau sồng sộc chi cái già, nhác thấy ai là chẳng gớm?
Thôi thì đẹp duyên thì lấy, có hay đổi chác chi cỏ rau;
Hẳn là phải kiếp thì theo, sá quản tầm thường chi tấm cám.
Nhân có thơ rằng:
Nhân duyên trời chửa định nơi nao,
Nông nỗi con nay mẹ tính sao?
Con muốn sớm chồng con lại sớm,
Kẻo người lấy hết chổng mông gào!
Mẹ già nghe nói, khuyên con ngọt ngào:
Hễ nhà có gái, lắm kẻ ra vào.
Biết đâu là duyên ưa lá thắm;
Để mong cho phận đẹp má đào.
Vội chi mà vội;
Bao giờ thì bao!
Cũng mặc ai chỉ Tấn tơ Tần, cứ giữ lấy mình vàng giá ngọc;
Cho đáng kẻ chồng loan vợ phượng, lọ là nên chào khách bán rao!
Há lo đâu có ế chi chồng, lúa muộn càng nhiều hạt chắc;
Cũng nghĩ nên đương xuân chi gái, ngọc lành phải đợi giá cao.