Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Cao Bá Quát » Thơ chữ Hán
Đăng bởi Vanachi vào 11/05/2014 13:43
九月望後天氣涼,
白日黯慘晨無光。
羈人蓬髮坐斷床,
悲風颯颯吹衣裳。
部丁朅來聲琅琅,
喚取蹙促赴廳堂。
翻身荷械隨雁行,
敝巾不整走且忙。
入門獄卒挾兩傍,
都人駭觀如堵牆。
大官列坐下一郎,
呼出獄具羅致將。
巨藤之鞭長且長,
膚紫肉硬揉如僵。
羈人偃臥形蒼黃,
回頭側顧如驚羊。
手伸脚直兩眼慌,
雨後濕毒烝膀胱。
良久問訊口不張,
苦道屈屈號穹蒼。
官聲霹靂摧臺樑,
電光閃閃交飛翔。
掀如雙蛟搏壞塘,
罷如冷水灌急湯。
兩木卓立勢倔彊,
呻聲十二迴修廊。
嗚呼一枝春海棠,
摧折不辨昌州香。
此時暮天迥蒼茫,
臺角為我飛清霜。
藤鞭垂垂氣不揚,
拱立繞指迴柔腸。
得喪命也人之常,
眉目如人何戚傷?
國恩家澤未少償,
勇夫那死翰墨場。
嗟哉藤鞭!
爾不見:
德江之陽,
月恆之崗。
上有半死之松柏,
突兀凍久而相望。
苟弗棄于哲匠,
固無取乎雞棲與豫章。
而何剪伐之當。
Cửu nguyệt vọng hậu thiên khí lương,
Bạch nhật ảm thảm thần vô quang.
Ky nhân bồng phát toạ đoạn sàng,
Bi phong táp táp xuy y thường.
Bộ đinh khiết lai thanh lang lang,
Hoán thủ túc xúc phó sảnh đường.
Phiên thân hà giới tuỳ nhạn hàng,
Tệ cân bất chỉnh tẩu thả mang.
Nhập môn ngục tốt hiệp lưỡng bàng,
Đô nhân hãi quan như đổ tường.
Đại quan liệt toạ hạ nhất lang,
Hô xuất ngục cụ la trí tương.
Cự đằng chi tiên trường thả trường,
Phu tử nhục ngạnh nhu như cương.
Ky nhân yển ngoạ hình thương hoàng,
Hồi đầu trắc cố như kinh dương.
Thủ thân cước trực lưỡng nhãn hoang,
Vũ hậu thấp độc chưng bàng quang.
Lương cửu vấn tấn khẩu bất trương,
Khổ đạo khuất khuất hào khung thương.
Quan thanh tích lịch tồi đài lương,
Điện quang thiểm thiểm giao phi tường.
Hân như song giao bác hoại đường,
Bãi như lãnh thuỷ quán cấp thang.
Lưỡng mộc trác lập thế quật cường,
Thân thanh thập nhị hồi tu lang.
Ô hô nhất chi xuân hải đường,
Tồi chiết bất biện Xương Châu hương.
Thử thì mộ thiên quýnh thương mang,
Đài giác vị ngã phi thanh sương.
Đằng tiên thuỳ thuỳ khí bất dương,
Củng lập nhiễu chỉ hồi nhu trường.
Đắc táng mệnh dã nhân chi thường,
My mục như nhân hà thích thương?
Quốc ân gia trạch vị thiểu thường,
Dũng phu na tử hàn mặc trường.
Ta tai đằng tiên!
Nhĩ bất kiến:
Đức Giang chi dương,
Nguyệt Hằng chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu nhi tương vọng.
Cẩu phất khí vu triết tượng,
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương.
Nhi hà tiễn phạt chi đương.
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 11/05/2014 13:43
Qua rằm tháng chín khí trời mát
Sớm ngày ảm đạm ánh nắng nhạt
Thân tù tóc rối, trên ghế long
Gió thổi áo quần nghe xào xạc
Lính lệ chạy lại miệng oang oang
Thét to, thúc giục lên công đàng
Đứng dậy mang gông theo sau hắn
Khăn tàn xốc xếch bước vội vàng
Vào cổng có lính kèm sát nách
Phố phường người xem vây kín mít
Quan to ngồi trên, dưới một thầy
Truyền đem hình cụ bày la liệt
Cây roi song lớn dài dài sao
Mình rắn da thâm, uốn chẳng vào
Thân tù nằm sấp, vẻ xanh xám
Như con dê sợ nhìn trước sau
Tay chân căng thẳng mắt mờ hoáng
Mưa tạnh hơi độc xông lên háng
Bị tra tấn mãi miệng cứng đờ
Một mực kêu trời "Khổ! oan uổng!"
Tiếng quan như sấm rường nhà rung
Ánh roi như chớp vụt tứ tung
Giơ lên, rồng quật bờ ao lở
Ngừng lại, nước dội nồi canh bồng
Đôi cọc sừng sững đứng ngạo nghễ
Mấy dãy hành lang tiếng rên xé
Than ôi! một nhánh hải đường tơ
Chẳng nể Xương Châu mà nở bẻ
Trời chiều cao thẳm lại mênh mang
Góc điện vì ta toả khí sương
Roi song buông thõng, hết giận dữ
Tay chắp, ruột mềm lòng vấn vương
Cùng thông ở đời đều bởi số
Tai mắt kém ai mà đau khổ
Nợ nhà ơn nước chưa đền xong
Chết chốn văn chương đâu phải chỗ
Này cái roi song!
Mày có thấy:
Bờ nam Đức Giang
Đỉnh núi Nguyệt Hằng
Trên có cây tùng cây bách đương chết dở
Giữa trời đông rét mướt mà vẫn đứng hiên ngang
Nếu có thợ giỏi biết đến
Thì xá chi những loài bồ kết chướng não tầm thường
Nỡ nào đốn chặt cho đang!
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 23/07/2016 11:24
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Trương Việt Linh ngày 14/08/2018 08:12
Sau rằm tháng chín khí dịu mát
Mặt trời u ám nắng mai nhạt
Thân tù tóc rối đầu bờm xờm
Thờ thẩn ngồi trên chiếc giường nát
Gió lạnh thổi vù quần áo bay
Lính lệ tới nơi la oang oác
Thét vang thúc giục đến công đường
Áo khăn xốc xếch vội lê bước
Vào cửa lính canh kèm hai bên
Phố phường người xem vẻ ngơ ngác
Bên trên quan lớn dưới một thầy
Hình cụ đem ra bày la liệt
Cái roi song lớn dài thật dài
Da tía, mình rắn. nắm thẳng đét
Kẻ tù nằm duỗi vẻ xám xanh
Đầu ngoái một bên mắt lấm lét
Tay chân căng thẳng lòng hoang mang
Sau mưa hơi xông đến bàng quang
Miệng lưỡi cứng đờ bị tra tấn
Vật vã kêu trời oan uổng thay
Tiếng quan thét lớn rường nhà lay
Loang loáng roi vung như chớp giật
Giơ lên thế tựa hai rồng quật
Dường như nước lạnh đổ nồi sôi
Đứng sừng sững kia cọc một đôi
Mấy dãy hành lang tiếng rên khóc
Ôi! cành hải đường bị tan nát
Kể chi hương sắc thành Xương Châu
Trời đã về chiều thăm thẳm cao
Góc điện vì ta khói sương toả
Roi song buông xuống đánh như hả
Tay chắp ruột mềm lòng xót xa
Được mất ở đời do mệnh ra
Mặt mũi như người sao lại khổ
Ơn nước nợ nhà còn chưa trả
Đại nhân đâu chết vì văn chương
Này roi song !
Thấy chăng phía nam sông Đức Giang
Trên đỉnh núi Nguyệt Hằng
Cây tùng cây bách đang chết dỡ
Hiên ngang giữa trời mặc buốt giá
Có người thợ giỏi biết đến nó
Bồ kết, não chướng có đáng chi
Sao lại nỡ lòng chặt phá đi
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 11/08/2018 10:46
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 22/09/2020 15:35
Sau rằm tháng chín mát bầu trời,
U ám mặt trời nhạt nắng mai.
Thân bị tù đày đầu tóc rối,
Chiếc giường cũ nát thẩn thờ ngồi.
Thổi vù gió lạnh bay quần áo,
Lính lệ tới nơi la hét vang,
Thúc giục oang oang đến sảnh đường.
Vội lê khăn áo không ngay ngắn,
Lính canh vào cửa kèm hai hàng.
Phường phố người xem vây đông nghịt,
Quan lớn bên trên dưới bác đề,
Cái roi song lớn thật là dài.
Hỏi tra hình cụ bày la liệt,
Mình rắn đét roi da tái xanh,
Đờ cứng tay chân lòng bất ổn,
Tù nhân nằm duỗi mặt màu xanh.
Ngoái đầu trở lại mắt dò xét,
Hơi độc lại xông đến bàng quang.
Tra tấn cứng đờ cả miệng lưỡi,
Kêu trời vật vã khổ là oan,
Tiếng quan thét lớn rường nhà động,
Như chớp loáng roi múa tứ tung.
Thế tựa ngóc lên hai rồng quật,
Dường như nước lạnh sục sôi bung.
Một đôi sừng sững cọc kia đứng,
Mấy dãy hành lang tiếng khóc than,
Ôi cánh hải đường tan nát hết,
Kể chi hương sắc thành Xương Châu.
Trời đã về chiều thăm thẳm sầu,
Vì ta góc điện toả sương khói,
Roi song buông xuống đánh hồi lâu,
Tay chắp ruột mềm lòng vướng sầu.
Được mất ở đời đều mệnh ra,
Như người mặt mũi sao phiền ta.
Nợ nhà ơn nước còn chưa trả,
Đâu chết đại nhân văn học nhà.
Hỡi roi song, mầy có thấy:
Phía nam sông Đức Giang
Trên đỉnh núi Nguyệt Hằng
Cây bách cây tùng đang dỡ chết,
Giữa trời mặc buốt giá hiên ngang.
Có người thợ giỏi biết về nó,
Bồ kết, long não có đáng gì
Sao lại nỡ lòng chặt đốn đi.