Đoản kiếm của ta óng ánh nạm vàng,
Lưỡi thép sắc, tịnh không khuyết tật,
Mang bí quyết phép luyện tôi bí mật
Thừa kế của Phương Đông thô lỗ cục cằn.

Nơi núi cao năm tháng nó theo chân
Một kỵ sỹ, không ngại ngần, tính toán;
Bao chiến bào thù nó rạch xé nát tan,
Trên ngực chúng - những vết đâm sâu hoắm.

Khi diễn trò vui, như nô lệ, yếu hèn,
Lúc rửa hận lại thét vang theo lệnh chủ;
Ngày ấy nét chạm trổ tinh hoa của nó
Chỉ như những vết nhơ trên bộ phục trang.

Bên dòng sông, một anh chàng Kazak
Đã nhặt nó lên từ xác lạnh chủ nhân,
Và rất lâu sau nó nằm chờ lặng ngắt
Trên mẹt hàng của một gã bán rong

Kẻ đồng hành của người hùng đã khuất
Giờ trỏng trơ không còn cả vỏ bao,
Như đồ chơi treo trên tường óng ánh
Nó trở nên vô hại, hết tự hào.

Không còn ai hằng ngày chăm chút
Lau nó sáng choang và âu yếm tận tình
Cũng không ai vào giờ nguyện lúc bình minh,
Còn thành kính đọc những dòng chữ khắc.

Thời buổi đớn hèn này, nhà thơ ơi, có lẽ
Chàng đã lãng quên thiên chức của mình?
Đã đánh đổi quyền uy mà nhân thế tôn sùng
Lấy lạc thú, bạc tiền cùng mọi trò tiêu khiển?

Âm hưởng của những lời ca hùng tráng
Từng đốt lửa trong tim chiến sĩ chốn sa trường,
Cần cho đám đông như rượu cho tiệc yến,
Cho phút nguyện cầu - một chút trầm hương.

Thơ chàng từng vang như tiếng gọi non sông,
Tiếng gọi của đấng thần linh cao cả,
Gióng giả ngân rung trên các tháp chuông
Báo những ngày vui, những giờ hiểm hoạ.

Nay lũ ta chán lời ca tự hào, giản dị,
Đã u mê trước những gì loè loẹt, dối gian,
Như nhan sắc già nua, nhân thế đã quen
Giấu những nếp nhăn sau lần son phấn.

Liệu có tỉnh lại không nhà tiên tri bị giễu,
Hay lòng chàng đã nhụt chí rửa thù?
Từ chiếc vỏ mạ vàng chàng  không còn tuốt nổi
Lưỡi kiếm bị vùi trong lớp gỉ nhuốc nhơ?

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]