Loạn lạc tóc bạc hết,
Lại thêm bệnh buộc ràng.
Cạnh vùng giặc lặn lội,
Qua Giang Hán kềnh càng.
Lúc than sức thuốc yếu,
Thân khách càng thêm thương.
Bác ta nhà thơ giỏi,
Trên đời tiếng thơm lừng.
Đạo châu, họ Nguyên khá,
Thánh xưa còn nể nang.
Thấy rõ lòng siêu việt,
Hãy coi bài Thung Lăng.
Lại đọc bài "Giặc rút",
Ông Kết, đúng cột rường.
Giả Nghị xưa khóc thảm,
Khuông Hàm cứ dẫn chương.
Đạo Châu thương dân khổ,
Lời văn tứ tán vung.
Hai bài, trăng thu sáng,
Mỗi chữ, sao sáng trưng.
Giúp vua, Đường Nghiêu kịp,
Chân thành nhớ triều vương.
Dùng ông mà minh hoạ,
Mỗi khi ban huân chương.
Kiện cáo từ lâu bỏ,
Há chỉ chiến trận ngưng.
Đớn đau nhớ thuế má,
Thu ít kể như không.
Mới hay ý kẻ cả,
Chẳng phải là khoe khoang.
Núi nam thấm gió mát,
Gia ơn những ngại ngùng.
Vẻ chẳng muốn ấn lớn,
Lòng ham về sông Thương.
Tôi giống Trường Khanh, bệnh,
Đêm ngày nghĩ nghiệp vương.
Phổi khô, càng thấy khát,
Thành Công Tôn lang bang.
Gọi con sẵn giấy bút,
Co ro dựa bên tường.
Làm thơ, ngâm ư ử,
Mực nhạt, chữ loăng quăng.
Cảm vì lời thống thiết,
Bao người biết nghe chăng?