Đã từ lâu xuôi nam, thân khách,
Tây ở chờ chia cách cùng ông.
Cuối năm giày le những mong,
Thu đến thư nhạn có công mang về.
Chốn Kinh Môn còn ghi điều tốt,
Phận tuy anh em ruột, sống xa.
Nghe nói cử đi cầu hoà,
Giúp nước tên đã chói loà nơi nơi.
Liền cành mà không thời gần cạnh,
Vì chức cao chẳng rảnh phút giờ.
Trước đó gây rối giặc Hồ
Chính quyền non yếu phải lo giữ phòng.
Giang sơn trải mịt mùng khói bụi,
Đất nước là một bãi gò hoang.
Điện vua tan ngói uyên ương,
Tấm màn cánh trả trong cung bay vù.
Hậu cung lại làm hư phòng thủ,
Cây dựng rào thủng lỗ dậu ngăn.
Di sản gìn giữ lo toan,
Người thân nghèo bệnh gặp hoàn cảnh lo.
Lúc đó ông hét hò quỷ dữ,
Cầm đầu việc ngăn giữ cá kình.
Tiêu thừa tướng mến uy danh,
Phạm Thư nào phải một mình tài hay.
Đường Thái Hàng đống thây chồng chất,,
Ngòi Tuấn Nghi máu thoát đầy tràn.
Cửa sông Phũ vẫn hội quân,
Làm cho nỗi nhục Hàm Quan tan dần.
Rồi vua cũng tới tuần ngự trị,
Ngôi sao trời đúng vị lên ngôi.
Mũ cao luôn được bên người,
Ân sâu nên được giữ nơi kinh thành.
Chức vị lớn há dành Vệ, Hoắc,
Cứ theo đà cất nhắc dần lên.
Phượng bay xà xuống từ trên,
Vượt đàn vượn giỏi leo lên tột đầu.
Cặp Tống Ngọc đứng hầu bên cạnh,
Hai Nhương Tư hoạch định việc quân.
Cẩn tắc khiến mỏi tinh thần,
Gặp cảnh khó xử đã lần tới nơi.
Cho mai sau, trổ tài sáng tác,
Càng ghi thêm công sức của ông.
Tóc bạc cam phận long đong,
Mây trắng co duỗi, cái vòng quẩn quanh.
Kể về việc điều hành sáng chói,
Lại giỏi nghề ăn nói trơn tru.
Tưởng lầm thích quất bên hồ,
Bữa cơm thường có rau bờ bụi hoang.
Suốt mười năm thuốc thang gắn bó,
Vạn dặm cùng bù khú ngư tiều.
Chàng Dương hốt hoảng nhảy lầu,
Anh Trâu tiếc cửa vương hầu náu nương.
Đom đóm bay vẫn thường kinh hãi,
Có nhớ đâu, cóc đổi phận rồi.
Vu Giáp mưa khói phủ dài,
Đầm Mạnh Chư bị Giang Hoài bỏ rơi.
Tuy kiên cố, ao sôi, thành chắc,
Nơi biển xa vẫn nước ứ tràn.
Cố gắng vận dụng tâm can,
Chẳng riêng gì lão tiêu tan nỗi buồn.