Hữu bổ khuyết trước kia được chức,
Đầu Thượng Nguyên ra sức phò vua.
Nơi vua tạm trú, bụi nhoà,
Yêu tinh xuống thẳng chỗ nhà vua ngơi.
Sáu con rồng cùng soi cửa Hán,
Diêu khư có cả vạn lính ngăn.
Phương bắc vận nước chuyển vần
Kinh đô nhớ xe vua lăn thuở nào.
Một trận ra công đầu hãn mã,
Trăm họ thoát cảnh cá trong thành.
Sổ quan ly hiện rõ hình,
Xe vua lũ lượt vai khênh bước dồn.
Vui không giống: cửa son, vách đất,
Chuyện khác nhau: xếp đặt lên ngôi.
Qui hàng, bọn giặc mới rồi,
Toàn dân đều muốn tung lời ca vang.
Tài tuy kém nhưng cùng bổ nhiệm,
Theo chiếu vua xin nguyện can ngăn.
Gác mây cò vạc chịu ơn,
Nơi thềm ngọc chật kỳ lân đứng chầu.
Văn Viên sau cơn đau bệnh dữ,
Quan trung tán bạn cũ làm ngơ.
Long đong thấy những thẫn thờ,
Cuộc đời ý vẫn còn dư tỏ bày.
Vu Giáp xa, toả đầy khói gió,
Cung Sở vắng, đài tạ điêu tàn.
Xin ghi: chuyện cũ chớ bàn,
Những bài văn mới, viết tràn đi cho.
Liễu biếc rữa khí thu trong sáng,
Sen đò, nơi bến vắng rụng rơi.
Cờ xí phần phật khắp trời,
Trải qua làng xóm nghe lời thở than.
Vùng hiểm yếu cứ lan trận chiến,
Tướng tấp tới gửi điện hành quân.
Tư lệnh vấn kế nhiều lần,
Nhà trong núi, thuốc chuyên cần bón chăm.
Về triều, quan lớn tham gia hội,
Đoàn sứ đi vang dội bốn bên.
Dài ngày, Tây Thục được yên,
Nam ông thấy rõ mới tan lòng sầu.
Đem quân chống, tổn hao binh sĩ,
Khiến kho tàng còn bị trống trơn.
Thế có vững, mới dùng quân,
Thành công, không lễ chóng tàn mà thôi.
Yên vàng trên ngựa nòi đúng gốc,
Nghiên mực hình con cóc được dùng.
Lễ múa móc bạc rớt tung,
Sóng tình khiến khăn gấm chùng tới vai.
Chuyến đi này chớ coi là xấu,
Các bạn xưa nau náu trông nhau.
Buồm trôi hãy giữ nguyên mầu,
Dật dờ mà tưởng vút mau trên dòng.
Đã lắm bệnh thêm công việc vặt,
Sống đơn sơ nào khác tiều, ngư.
Xin gạo ngại khách mặt trơ,
Tuân theo thư ký chép thơ rầy rà.
Đỗ Lăng buổi chiều tà ánh nắng,
Nơi sông Duật bùn lắng thấy ghê.
Chớ bàn mái tóc Thanh Khê,
Lơ thơ loé trắng mỗi khi chải đầu.