Bản dịch của Phạm Doanh

Vốn nhờ ở ơn sâu thời trước,
Thẹn vì chẳng dựa sức mà lên,
Tới già mới được làm quan,
Áo bào xúng xính vai chen đứng hầu.
Ngày ngày theo ngựa chầu bên điện,
Cho tới khi gãy ván mới rời.
Mắc tội, rộng tha chết rồi,
Cửa ải ngăn chặn, cái thời loạn li.
Mới sáng chim đen sì đã hiện,
Mà đời người vụt biến bóng câu.
Bệnh nặng càng thấy buồn rầu,
Thuyền con vất vưởng tới đâu là nhà.
Dùi chín lần xứ Ba mồi lửa,
Sấm Sở vang ba bữa chạy dài.
Truyện Thục Đế vẳng bên tai,
Chiêu Vương thắc mắc qui hồi hay không?
Đàn cá ngao ngược ngang gây rối,
Lại còn thêm hùm sói hoành hành.
Cái nghiệp thôi đã tan tành,
Còn ra gì nữa cái danh hão huyền.
Đàn quạ đen kêu than thảm thiết,
Hạc trong sân tíu tít múa may.
Trúc thu, nước sông Tương đầy,
Mai trên đỉnh núi gió vầy lạnh teo.
Long đong, bụng đói meo, kiếm miếng,
Trong lòng ghi giữ tiếng suốt đời.
Uốn lưỡi phòng khi lỡ lời,
Mầm tội trong bụng có chồi lên không.
Ngài Bộ binh lang thang khóc rống,
Chàng Trọng Tuyên lóng ngóng bi ai.
Cứu đói các nhà van nài,
Giải sầu rượu ở khắp nơi, tới kèo.
Không làm quan, than nghèo với túng,
Làm, người đời phỉ báng chua cay.
Lúc đầu được, mất, khó hay,
Sang, hèn dễ nhận thấy ngay từ đầu
Lầm lẫn trả áo bào, mũ mãng,
Loạc choạc đi nên vướng mù u.
Chẳng cần đất của Y, Chu,
Mà tài Khuất, Tống cũng đều bủa ra.
Triều đình Hán cầu hoà vùng ngược,
Sử nước Tấn thoát lược trung đài.
Nghiệp bá là chuyện lai rai,
Trung thần nên giữ kẻo tai nạn tròng.
Các quan đều cố công phục vụ,
Sao nhà vua lại cứ thấy phiền.
Vài kẻ chuông đỉnh ghi tên,
Đó là gương sáng leo lên hàng đầu.
Mong được nghe gươm đao nấu chảy,
Rường cột kia xin hãy tài bồi.
Tảng đá cố đẽo, ngọc trồi,
Việc quân lựa chọn đúng người mà trao.
Công việc nước đem giao, chớ nhặt,
Luật lệ đừng khe khắt phiền hà.
Phượng hoàng ắt sẽ hiện ra,
Rồng vàng bay bồng há mà giả ư?
Hiền, mơ chẳng cần như Phó ruộng,
Ẩn, đục sao mà giống Nhan tường.
Xưa nay thân kẻ long đong,
Hệt như tro nguội cõi lòng buồn tênh.