Con chim sắp chết, tiếng kêu đau thương; người ta sắp chết, lời nói ngay thẳng. Những lời tôi nói ra đây có ngay thẳng hay chăng, tôi đâu có biết. Nhưng chỉ biết là lời nói của một người sắp chết thì có.

Mùa đông năm Quý Sửu (1913) tôi đang ở đậu Dương Thành (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông), thì quan Toàn quyền Pháp ở Đông Dương sang chơi Quảng Châu, đem vụ án đầu đảng cách mạng nước Nam ra, xin chính phủ Quảng Đông bắt tôi giao về chính phủ Pháp xử.

Đô đốc Quảng Đông lúc bấy giờ là Long Tế Quang chịu theo lời xin ấy, trước ngày cuối năm 8 bữa, bắt tôi giam cầm trong ngục, và báo cho tôi biết rằng sớm muộn sẽ giải tôi giao trả cho người Pháp.

Tôi biết sớm chiều gì đây, đầu tôi cũng lìa khỏi cổ, nhưng tôi vẫn lấy làm vui vẻ. Than ôi! Bao nhiêu năm bôn tẩu, mưu tính trăm việc mà không nên một việc gì, nghĩ mình tội nặng lỗi nhiều, có vui gì sống nữa mà ham.

Song trước khi chết, không lẽ không thốt ra một vài tiếng kêu đau thương sau chót. Ai biết lòng ta chăng? Ai bảo ta có tội chăng? Còn một giây phút trước khi ta phải chôn mình dưới đất, ta cũng muốn cạn lời ta nói. Chiếc bóng bơ vơ trời biển, ngọn đèn leo lét gió mưa, ta thấm giọt lệ còn lưu lại mấy chục năm nay, gom góp lịch sử một đời ta, hoà với máu mà viết ra tập sách này. Hỡi ba ngàn muôn đồng bào chí ái chí thân, dầu ai biết lòng ta chăng? Dầu ai buộc tội ta chăng? Khi đọc tập sách này, sẽ thấy giọt máu hầu khô, vẫn còn đầm đìa ở trên mặt tờ giấy vậy.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]