Giá thử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay; quan lại công bằng, án Viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng; thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười; mà chắc rằng biên thuỳ một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp. Thì sao con tỏ được là người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, tay đàn bà mà lại có cơ quyền. Thế mới biết: người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo lắm trò quanh quẩn.

Con Tạo hoá vốn thương yêu tài sắc, nàng đà biết thế hay chưa? Khách má hồng đừng giận nỗi trăng già, ta cũng khuyên lời phải chẳng. Chỉ vì một tội: mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều; trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi. Cũng có người bảo tại nước chảy mây trôi lỡ bước, nên cành đưa là đón quen thân. Nào biết đâu bông hạnh nở ngoài tường chưa để con ong qua tới; cho có muốn lưỡi dao liều với mạng, lại sợ thành cháy vạ lây. Tấm lòng này như tuyết như gương, mối sầu nọ qua ngày qua tháng.

Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết so bì, nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng vẫn còn vơ vẩn.

Bàn cho thật phải, tình cũng nên thương. Lại xem như bút mực tài hoa, đoạn trường mười khúc, trúc tơ phong nhã, hồ cầm một trương; câu thần vẳng giọng tiêu tao, bóng ngọc tưởng chiều não nuột; hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh; vậy nên khách chung tình say chuyện phong lưu, trăm năm cũ còn ghi tên tuổi hão; người chép sách tiếc vì tài sắc, nghìn thu sau nhặt cái phấn hương thừa.

Than ôi! Một bước phong trần, mấy phen chìm nổi, trời tình mờ mịt, bể giận mông mênh. Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch. Ai dư nước mắt khóc người đời xưa; thế mà giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa. Lòng cảm cựu xui ai thương mướn, nghe câu ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai luân lạc đau lòng. Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu. Cái kiếp không hoa lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên. Sẵn bút nghiên chia vịnh từng hồi, đem sự tích tóm làm một tựa. Bây giờ kể còn dài chưa hết, hạt ba tiêu như thánh thót mưa thu. Hỡi ôi! Hồn còn biết hay chăng, bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc Phố.

Bản dịch này được đăng lần đầu trên tạp chí Nam Phong (số 31, 1-1920) ký tên Đoàn Quỳ. Thực tế, Đoàn Quỳ là cháu của Đoàn Tư Thuật, chỉ là người gửi đăng. Sau trên tạp chí Tri tân (số 63, 9-1942), Hoa Bằng đã ghi đúng tên dịch giả là Đoàn Tư Thuật.

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]