Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 19/04/2015 11:55
石城除擊柝,
鐵鎖欲開關。
鼓角悲荒塞,
星河落曉山。
巴人常小梗,
蜀使動無還。
垂老孤帆色,
飄飄犯百蠻。
Thạch thành trừ kích thác,
Thiết toả dục khai quan.
Cổ giác bi hoang tái,
Tinh hà lạc hiểu sơn.
Ba nhân thường tiểu ngạnh,
Thục sứ động vô hoàn.
Thuỳ lão cô phàm sắc,
Phiêu phiêu phạm bách man.
Tiếng mõ vừa ngưng nơi thành xây bằng đá,
Khoá sắt mở và cửa tung ra.
Nơi vùng biên giới hoang vu tiếng trống, ốc ai oán,
Sao trời lặn sau núi ban mai.
Người xứ Ba thường ương bướng,
Sứ vua cử vào đất Thục có đi mà không trở lại.
Gần già, quen với mầu buồm lẻ,
Cứ phới phới xông vào vùng các bộ tộc.
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 18/04/2015 11:55
Thạch-thành mõ vừa mới ngưng,
Khoá sắt cũng mở cửa tung ra rồi.
Biên hoang, trống ốc bi ai,
Tinh tú mới sáng đã rơi sau đồi.
Dân Ba tính thích trêu ngươi,
Sứ tới vùng Thục không người quay lui.
Già rồi buồm lẻ còn trôi,
Lênh đênh cứ dạt qua nơi trăm Mường.
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 13/02/2020 11:31
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 05/09/2020 09:57
Tiếng mõ vừa ngưng nơi thạch thành,
Cửa tung khoá sắt mở ra nhanh.
Hoang vu kèn trống biên cương oán,
Sau núi ban mai sao lặn quanh.
Người xứ Ba thường ương bướng nhác,
Sứ vào đất Thục không về thành.
Gần già quen với mầu buồm lẻ,
Phới phới xông vào bộ tộc nhanh.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 11/04/2020 16:02
Thành đá tiếng mõ dứt,
Khoá sắt mở cửa thành.
Tù và buồn ải vắng,
Sao lặn trên núi xanh.
Người Ba thường bướng loạn,
Sứ Thục khó về nhanh.
Như buồm côi già đến,
Giữa Man Di điêu linh.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 11/04/2020 16:04
Tiếng mõ vừa ngưng nơi thành đá
Hai cửa thành mở khoá toang ra
Trống kèn ai oán ải xa
Núi ban mai hiện Ngân hà lặn sau
Người xứ Ba thường cau và bướng
Sứ Thục vào nhưng hiếm trở ra
Lão câu buồm cũ chơ vơ
Vẫn thường lui tới man di xóm làng.