奉使崔都水翁下峽

無數涪江筏,
鳴橈總發時。
別離終不久,
宗族忍相遺。
白狗黃牛峽,
朝雲暮雨祠。
所過頻問訊,
到日自題詩。

 

Phụng sứ Thôi đô thuỷ ông há giáp

Vô sổ Phù giang phiệt,
Minh nhiêu tổng phát thì.
Biệt ly chung bất cửu,
Tông tộc nhẫn tương di.
Bạch Cẩu, Hoàng Ngưu giáp,
Triêu Vân, Mộ Vũ từ.
Sở quá tần vấn tấn,
Đáo nhật tự đề thi.

 

Dịch nghĩa

Trên sông Phù có không biết bao nhiêu là thuyền bè,
Vào lúc cả đoàn ra đi là tiếng chèo khua rộn.
Cuộc chia tay không có bao lâu,
Cùng họ hàng mà nỡ bỏ nhau sao.
Nào là kẽm Bạch Cẩu, Hoàng Ngưu,
Nọ là đền Triêu Vân, Mộ Vũ.
Những nơi đi ngang qua đã hỏi thăm nhiều lần,
Khi nào tới chỗ ở sẽ làm thơ mô tả.


(Năm 763)

Tiêu đề có bản chép là Phụng tống Thôi đô thuỷ ông há giáp 奉送崔都水翁下峽.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Sông Phù thật lắm bè,
Đoàn chuyển, chèo khua dội.
Chia tay không kéo dài,
Họ hàng nỡ bỏ lại.
Kẽm Chó trắng, Bò vàng,
Đền Mây sớm, Mưa tối.
Cái trước cần hỏi thăm,
Tự làm thơ lúc tới.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Bến Bồi giang bè trông vô số,
Chèo khoát nhanh tất cả ra đi.
Gặp nhau phút đã biệt li,
Họ hàng lòng nỡ xa lìa được sao?
Hẻm Bạch Cẩu, hẻm Hoàng Ngưu,
Đền thờ Thần Nữ mưa chiều, sáng mây.
Nơi qua cháu hỏi kĩ hoài,
Đợi ngày đến đó, đề bài thơ vui.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trên sông Bồi thuyền bè vô số
Lúc đoàn đi lố nhố chèo mau
Chia tay rốt cuộc không lâu
Họ hàng lại nỡ bỏ nhau sao đành
Đây Chó Trắng, Bò Vàng hai kẽm
Kia thờ thần mây sáng chiều mưa
Hỏi hoài tin tức nơi qua
Vào ngày đến ắt đề thơ tường trình.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời