進艇

南京久客耕南畝,
北望傷神坐北窗。
晝引老妻乘小艇,
晴看稚子浴清江。
俱飛蛺蝶元相逐,
並蒂芙蓉本自雙。
茗飲蔗漿攜所有,
瓷罌無謝玉為缸。

 

Tiến đĩnh

Nam Kinh cửu khách canh nam mẫu,
Bắc vọng thương thần toạ bắc song.
Trú dẫn lão thê thừa tiểu đĩnh,
Tình khan trĩ tử dục thanh giang.
Câu phi giáp điệp nguyên tương trục,
Tịnh đế phù dung bản tự song.
Mính ẩm giá tương huề sở hữu,
Từ anh vô tạ ngọc vi cang.

 

Dịch nghĩa

Người khách từng ngụ lâu ở Nam Kinh, cày ruộng ở phía nam,
Ngồi ì nơi cửa sổ phía bắc đau lòng nhìn về phương bắc.
Sáng dắt vợ già bước lên con thuyền nhỏ,
Khi tạnh coi bày trẻ tắm nơi sông trong.
Bươm bướm bay liền nhau cứ tới tấp,
Sen chung một đế tự nhiên thành cặp.
Uống trà, nước miá đều sẵn có cả,
Bình sành có kém gì bình ngọc đâu!


(Năm 760)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Nam Kinh khách cũ cày mấy mẫu,
Ngóng bắc, đau lòng ngồi cạnh song.
Sớm giắt vợ già lên thuyền nhỏ,
Chiều coi con trẻ tắm sông trong.
Bươm bướm cùng bay đôi cánh chắp,
Hoa sen từ trước một đài chung.
Uống trà nước miá nhà vẫn có,
Ấm đất thay cho cái ấm đồng.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Khách Nam Kinh phía nam cày ruộng
Ngồi bên song buồn vọng bắc phương
Lên thuyền dắt vợ tinh sương
Coi bầy con nhỏ sông trong tắm đuà
Bươm bưóm bay nhởn nhơ trong nắng
Sen rễ chung mọc thẳng thành đôi
Trà thơm, nước mía sẵn rồi
Bình sành bình ngọc vẽ vời làm chi!

Chưa có đánh giá nào
Trả lời