遣悶

地闊平沙岸,
舟虛小洞房。
使塵來驛道,
城日避烏檣。
暑雨留蒸濕,
江風借夕涼。
行雲星隱見,
疊浪月光芒。
螢鑒緣帷徹,
蛛絲罥鬢長。
哀箏猶憑幾,
鳴笛竟沾裳。
倚著如秦贅,
過逢類楚狂。
氣沖看劍匣,
穎脫撫錐囊。
妖孽關東臭,
兵戈隴右創。
時清疑武略,
世亂局文場。
餘力浮於海,
端憂問彼蒼。
百年從萬事,
故國耿難忘。

 

Khiển muộn

Địa khoát bình sa ngạn,
Châu hư tiểu động phòng.
Sứ trần lai dịch đạo,
Thành nhật tị ô tường.
Thử vũ lưu chưng thấp,
Giang phong tá tịch lương.
Hành vân tinh ẩn hiện,
Điệp lãng nguyệt quang mang.
Huỳnh giám duyên duy triệt,
Thù ti quyến mấn trường.
Ai tranh do bằng kỷ,
Minh địch cánh triêm thường.
Ỷ trước như Tần chuế,
Qua phùng loại Sở cuồng.
Khí xung khan kiếm hạp,
Dĩnh thoát phủ chuỳ nang.
Yêu nghiệt Quan Đông xú,
Binh qua Lũng Hữu sang.
Thời thanh nghi vũ lược,
Thế loạn cục văn trường.
Dư lực phù ư hải,
Đoan ưu vấn bỉ thương.
Bách niên tòng vạn sự,
Cố quốc cảnh nan vương.

 

Dịch nghĩa

Đất rộng bờ cát phẳng,
Trên chiếc thuyền trống, phòng nhỏ xíu.
Các viên chức nhà vua đi trên đường cái quan đầy bụi,
Ban ngày cột buồm có hình con quạ dừng lại bên thành.
Mưa rào làm không khí thêm nực nội,
May nhờ được gió sông nên hơi mát.
Mây bay đôi lúc để lộ ra sao trời,
Sóng gối đầu khiến trăng thêm sáng láng.
Đom đóm lập loè trong bức màn,
Nhện giăng tơ những sợi dài.
Tựa ghế nghe thấy tiếng đàn buồn,
Tiếng sáo vọng khiến nước mắt ướt áo.
Bị dính vào cảnh ở rể như phong tục Tần,
Gặp những người như Sở cuồng.
Ý chí nổi lên khi thấy bao gươm,
Mũi dao lòi ra bèn vỗ túi đựng gậy sắt.
Vùng Quan Đông hơi hôi thối bốc,
Chiến tranh gây tai hại cho vùng Lũng Hữu.
Lúc yên lành chẳng cần chính sách quân sự,
Đời loạn thì chợ văn ế ẩm.
Sức sống thừa bập bềnh nơi biển cả,
Đem mối lo ngại ra mà hỏi trời vậy.
Cuộc đời có biết bao nhiều là việc,
Mà lòng nhớ quê xưa nào có khuây.


(Năm 768)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Đất rộng bờ cát phẳng,
Phòng nhỏ trống, con thuyền.
Đường quan, sứ đi lại,
Buồm chiều đậu thành bên.
Mưa rào thêm oi bức,
Gió sông mát về đêm.
Mây trôi sao ẩn hiện,
Sóng dồn trăng sáng thêm.
Đóm sao bám màn mỏng,
Nhện giăng tơ sợi mềm.
Đàn buồn, thân dựa ghế,
Sáo vọng, lệ triền miên.
Đã mang kiếp ở rể,
Gặp rặt những kẻ điên.
Vỗ túi dùi, lòi mũi,
Căm bao gươm, khi nhìn,
Quan Đông quỷ bốc thối,
Lũng Hữu giặc gây phiền.
Chợ văn ế lúc loạn,
Nghề võ rẻ khi yên.
Sức thừa nổi bể dưới,
Lòng lo hỏi trời trên.
Cuộc đời hàng vạn chuyện,
Quê cũ làm sao quên!

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Bãi cát bờ sông bằng phẳng
Ngồi trong góc trống con thuyền
Sứ lấm bụi đường dịch trạm
Mặt trời gát ngọn tường đen
Mưa rơi hơi nồng thấp ẩm
Buổi chiều thoáng mát gió sông
Mây trôi ngàn sao hiện ẩn
Sóng lớp lớp nguyệt mênh mông.
Đom đóm đậu màn cửa sổ
Tóc mai tơ nhện dài vương
Dựa ghế nghe tiếng tranh buồn
Ướt áo sáo buông lệ đổ
Người Tần ở rể sống nhờ
Gặp thứ người cuồng đất Sở
Hào khí dâng nhìn hộp gỗ
tuốt bao gươm nhọn cầm hờ.
Yêu quái phá thối Quan Đông
Lũng Hữu giặc tạo thương vong
Thanh bình việc binh ngừng đọng
Loạn lạc chữ nghĩa rẻ không.
Sức tàn bọt biển nổi trôi
Ưu tư này hỏi ông trời
Cả đời đuổi theo vạn sự
Lòng quê nào lại quên thôi.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Bãi bên sông phẳng và rộng lớn
Trong góc thuyền thu gọn trống không
Quan đi mình lấm bụi đường
Mặt trời ở cách xa tường thành đen
Mưa rào bốc hơi lên oi bức
Nhờ gió sông nên mát buổi chiều
Thấy sao trong đám mây phiêu
Sóng sông lớp lớp xô nhiều dưới trăng
Thấy đom đóm đậu trong rèm cửa
Tơ nhện dài vương ở tóc mai
Đang buồn tựa ghế đàn ai
Lại thêm tiếng sáo làm rơi lệ sầu
Kiếp sống nhờ niềm đau ở rể
Bất bình như người Sở điên cuồng
Khí dâng nhìn kiếm bao trong
Rút ra mũi nhọn lăm lăm tay cầm
Lũ yêu làm Quan Đông hôi thối
Giao tranh vùng Lũng Hữu thương vong
Lúc thanh bình, việc binh ngưng
Văn chương thời loạn dẹp phăng cho rồi
Sức tàn như bọt trôi trên biển
Đem ưu tư lên hỏi trời xanh
Cả đời vạn sự đã đành
Nhưng lòng canh cánh nhớ quê còn hoài.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời