官亭夕坐戲簡顏十少府

南國調寒杵,
西江浸日車。
客愁連蟋蟀,
亭古帶蒹葭。
不返青絲鞚,
虛燒夜燭花。
老翁須地主,
細細酌流霞。

 

Quan đình tịch toạ hí giản Nhan thập thiếu phủ

Nam quốc điều hàn xử,
Tây giang tẩm nhật xa.
Khách sầu liên tất suất,
Đình cổ đới kiêm hà.
Bất phản thanh ti khống,
Hư thiêu dạ chúc hoa.
Lão ông tu địa chủ,
Tế tế chước lưu hà.

 

Dịch nghĩa

Vùng nam tiếng chày có khắc hình vang lên lanh lảnh,
Sông phía tây phơi dưới ánh xe trời.
Khách buồn rầu theo với tiếng dế kêu,
Quán cũ cạnh ao hoa sen.
Không nghịch lại với mầu xanh của cái ràm ngựa,
Là cái ngọn đuốc đêm thừa.
Ông già nên trở thành người chủ đất,
Cứ nhâm nhi chuốc chén ráng chảy.


(Năm 768)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Vùng nam chày kêu vang,
Sông tây mặt trời ló.
Theo tiếng dế, khách buồn,
Cạnh hoa sen, đình cũ.
Đuốc đêm, sáng bằng thừa,
Tơ xanh, ràm không tỏ.
Chủ đất, lão già mong,
Rượu nồng chuốc nghiêng ngả.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Miền nam có điệu vang chày lạnh
Sông phía tây ngâm ánh mặt trời
Khách buồn tiếng dế không nguôi
Cỏ lau đình cổ không rời được nhau
Không trái với xanh màu ràm ngựa
Là đuốc hoa rỗng giữa canh khuya
Nên thành chủ đất lúc già
Nhâm nhi vài chén lưu hà giải khuây.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời