Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Trường An khốn đốn (746-755)
Đăng bởi Vanachi vào 20/01/2014 20:59
堂上不合生楓樹,
怪底江山起煙霧。
聞君掃卻赤縣圖,
乘興遣畫滄洲趣。
畫師亦無數,
好手不可遇。
對此融心神。
知君重毫素。
豈但祁嶽與鄭虔,
筆蹟遠過楊契丹。
得非懸圃裂,
無乃瀟湘翻。
悄然坐我天姥下,
耳邊已似聞清猿。
反思前夜風雨急,
乃是蒲城鬼神入。
元氣淋漓障猶濕,
真宰上訴天應泣。
野亭春還雜花遠,
漁翁暝蹋孤舟立。
滄浪水深青溟闊,
欹岸側島秋毫末。
不見湘妃鼓瑟時,
至今斑竹臨江活。
劉侯天機精,
愛畫入骨髓。
自有兩兒郎,
揮灑亦莫比。
大兒聰明到,
能添老樹巔崖里。
小兒心孔開,
貌得山僧及童子。
若耶溪,雲門寺。
吾獨胡為在泥滓,
青鞋布襪從此始。
Đường thượng bất hợp sinh phong thụ,
Quái để giang sơn khởi yên vụ.
Văn quân tảo khước Xích huyện đồ,
Thừa hứng khiển hoạ Thương châu thú.
Hoạ sư diệc vô số,
Hảo thủ bất khả ngộ.
Đối thử dung tâm thần.
Tri quân trọng hào tố.
Khởi đãn Kỳ Nhạc dữ Trịnh Kiền,
Bút tích viễn quá Dương Khiết Đan.
Đắc phi Huyền phố liệt,
Vô nãi tiêu tương phiên.
Tiễu nhiên toạ ngã thiên mụ hạ,
Nhĩ biên dĩ tự văn thanh viên.
Phản tư tiền dạ phong vũ cấp,
Nãi thị bồ thành quỷ thần nhập.
Nguyên khí lâm ly chướng do thấp,
Chân tể thượng tố thiên ưng khấp.
Dã đình xuân hoàn tạp hoa viễn,
Ngư ông minh tháp cô chu lập.
Thương lãng thuỷ thâm thanh minh khoát,
Y ngạn trắc đảo thu hào mạt.
Bất kiến Tương phi cổ sắt thì,
Chí kim ban trúc lâm giang hoạt.
Lưu hầu thiên cơ tinh,
Ái hoạ nhập cốt tuỷ.
Tự hữu lưỡng nhi lang,
Huy sái diệc mạc tỷ.
Đại nhi thông minh đáo,
Năng thiêm lão thụ điên nhai lý.
Tiểu nhi tâm khổng khai,
Mạo đắc sơn tăng cập đồng tử.
Nhược Da khê, Vân Môn tự.
Ngô độc hồ vi tại nê chỉ,
Thanh hài bố mạt tòng thử thuỷ.
Hình giống cây phong không có đất mà mọc được trong phòng?
Sương khói phủ trên núi sông quái lạ làm sao!
Nghe nói ông vẽ bức rừng phong huyện nhà trước,
Thừa hứng mới vẽ thêm bức sơn thuỷ.
Hoạ sĩ thì thiếu gì,
Nhưng người tài hoa khó mà gặp được.
Toàn tranh biểu lộ tâm và thần hoà hợp,
Nhìn nét vẽ biết ông cẩn trọng trong việc dùng bút và lụa.
Há chỉ có Kỳ Nhạc và Trịnh Kiền nổi danh thôi sao,
Nét bút của ông vượt xa Dương Khiết Đan.
Núi đẹp như Huyền Phố vừa tách ra khỏi dãy Côn Lôn,
Sông như vừa từ vùng Tiêu Tương tới.
Lặng yên hồi tưởng như đang ngồi dưới núi Thiên Mụ,
Bên tai còn vẳng nghe tiếng vượn hú trong trẻo.
Nhớ lại đêm trước mưa to gió lớn,
Chắc là quỷ thần đang nhập vào nét vẽ của ông trong huyện nhà.
Nguyên khí còn ướt trên bức chướng,
Rõ ràng là trời cũng cảm động rơi lệ vì vẽ tài tình.
Tranh sơn thuỷ tả xuân về trên đình với hoa rừng xa xa,
Ông lão thuyền chài đứng trên thuyền cô đơn khi chiều xuống.
Sóng xanh, dòng sâu, chảy ra biển rộng,
Nét bút tài hoa vẽ bờ nghiêng, góc đảo mùa thu.
Lúc hồn Tương phi gảy đàn gõ trống không thấy,
Nhưng tới nay, ban trúc còn mọc đầy bên sông.
Quan lớn họ Lưu có thiên tài,
Say mê nghề vẽ từ trong xương tuỷ.
Có hai cậu con trai,
Nét vẽ cũng không ai sánh kịp.
Cậu cả cực kỳ thông minh,
Vẽ được bức cây cổ thụ trên vách đá cao.
Cậu út lòng rộng mở,
Vẽ được bức sư quê bên chú tiểu.
Tại chùa Vân Môn, bên suối Nhược Da.
Ta sống một mình nơi bùn lầy nước đọng,
Đi giày xanh vớ vải từ ban đầu tới nay.
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 20/01/2014 20:59
Quái lại trên thềm sao mọc cây?
Rồi sông cùng núi! Khói cùng mây!
Chải tranh Xích huyện, vừa khô mực
Vẽ cảnh Thương Châu, lại hứng tay!
Thợ vẽ kể ra đầy
Tài hoa khó gặp thay
Biết ông trọng từng nét
Ngắm nghía lòng mê say
Trịnh Kiền, Kỳ Nhạc bút chưa già
Dương Khiết Đan xem cũng kém xa
Vườn Huyền chắc vừa lẩy
Dòng Tương chừng mới sa
Đặt ta ngồi xó đỉnh Thiên Mụ
Vượn hót bên tai nghe thiết tha
Gió đưa đêm trước thì ra bởi
Thần quỷ quanh miền khuân vác tới
Khí thiêng còn đẫm trên tranh mới
Trời phải khóc vì tài hạ giới
Quán quê xuân tới, rối màu hoa
Ngư phủ thuyền buông giữa bóng tà
Bể xanh nước lộn trời xanh rộng
Đảo lệch, bờ nghiêng lấm chấm xa
Nào thấy nàng Tương khi dạo phím
Bên sông trúc hoá vẫn rườm rà
Ông Lưu người tỉ mỉ
Mê tranh đến xương tuỷ
Lại được hai cậu con
Vẽ vời đều sáng ý
Cậu lớn thông minh thay:
Chấm thêm đỉnh núi một đôi cây!
Cậu khỏ đã có khiếu:
Vẽ sư, vẽ trẻ coi hay hay!
Suối Nhược Da! Chùa Cửa Mây!
Ta ở làm chi giữa vũng lầy?
Tất gai, dép cỏ kể từ đây!
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 04/01/2015 22:16
Trong phòng cây phong sao lại mọc,
Quái lạ, núi sông có khói bốc.
Nghe anh vừa vẽ huyện Xích xong,
Sẵn hứng, Thương Châu liền một lúc.
Người vẽ tuy đông đúc,
Nhưng tay tài khó được.
Ngắm xem lòng hả hê,
Từng nét anh chau chuốt.
Há chỉ Kỳ Khâu với Trịnh Kiền,
Nét vẽ vượt xa Dương Khiết Đan.
Vừa mới Huyện Phố tới,
Tiếp theo Tiêu Tương liền.
Đặt ta chễm chệ dưới Thiên Mụ,
Tưởng như tiếng vượn nghe liền bên.
Chợt nhớ đêm trước mưa gió táp,
Chính ở Bồ Thành quỷ thần nhập.
Chúa tể trên trời ứa lệ khen,
Nguyên khí vẫn còn hơi ẩm thấp.
Sân hoang xuân đến hoa cỏ đầy,
Ông chài ngủ gục, thuyền câu nấp.
Bờ nghiêng, đảo lệch tơ trời bay,
Sóng xanh nước sâu, biển khơi đầy.
Không thấy Tương phi gảy đàn sắt,
Trúc đốm bên sông tươi đến nay.
Lưu hầu vốn tính kỹ,
Mê vẽ thấu xương tuỷ.
Vốn có hai con trai,
Khó ai sánh tài vẽ.
Cậu cả thông minh ghê,
Đỉnh núi cây già vẽ xen kẽ.
Cậu em tính hiền lành,
Vẽ cả nhà sư lẫn con trẻ.
Nhược Da khê, Vân Môn tự.
Mình ta sao ở chốn bùn lầy,
Từ đây giày gai với dép cỏ.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 07/04/2016 08:19
Phong không đất trong phòng mọc được!
Khói trên non vương vất làm sao!
Rừng phong trong huyện vẽ đầu
Hứng thừa mới vẽ tranh sau bức này
Hoạ sĩ thì ngày nay đâu thiếu
Nhưng người tài có khiếu khó tìm
Bức tranh biểu lộ thân tâm
Biết ông cẩn trọng trong từng bút sa
Há chỉ Trịnh Kiền và Kỳ Nhạc
Nét bút ông xa vượt họ Dương
Núi kia Huyền Phố vừa nương
Nọ sông như tự Tiêu Tương mới tràn
Như đang ngồi dưới chân Thiên Mụ
Bên tai nghe vượn hú xa đưa
Nhớ về đêm trước gió mưa
Chắc là thần quỷ nhập vừa bút ông
Nguyên khí còn ướt trong bức chướng
Rõ ràng là trời cũng lệ rơi
Đình xuân hoa núi xa vời
Chiều về ông lão đơn côi trên thuyền
Dòng sông sâu chảy liền biển rộng
Góc đảo thu, bờ ruộng vẽ nghiêng
Tương Phi không gõ trống thiêng
Tới nay ban trúc khắp miền còn đây
Quan họ Lưu có tài thiên phú
Say mê nghề trong tuỷ truyền ra
Con trai hai cậu trong nhà
So về nét vẽ cũng là vô song
Cậu cả cực thông minh hiếm có
Vẽ bức cây cổ thụ trên cao
Mở lòng cậu út dồi dào
Vẽ tranh sư cụ còn bao tiểu đồng
Chùa Vân Môn vùng Nhược Da suối
Nơi bùn lầy nước nổi mình ta
Giày xanh vớ vải dần dà.