Trang trong tổng số 10 trang (99 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối
Cảm ơn bài thơ của em. Nhiều câu thơ trong bài gợi lên trong anh bao kí ức ngỡ đã chìm vào quên lãng, gợi lên bao nỗi buồn và cả những nỗi đau nữa...Thật hay với "Cái nắm tay dài suốt cuộc đời ta"...Có cả những ánh nhìn, những nụ cười, giọng nói nữa sẽ đi cùng ta đến hết cuộc đời, và đó vẫn mãi là chân lý, cái "lý" có "chân" cứ đeo đẳng suốt cuộc đời ta bởi "Buồn thì gần mà hạnh phúc mãi xa...".Anh thích chữ "mãi" ở câu này, chưa phải đã là tuyệt vọng, hạnh phúc mãi xa thôi nhưng còn có hy vọng, hơn là hạnh phúc "thì xa" như lẽ ra nó phải là hệ quả tất yếu phải xảy ra của "buồn thì gần". Quả là "biết đến bao giờ nỗi nhớ sẽ già..."? Nhưng hỏi mà hỏi thế thôi, nếu là anh, anh chắc và anh mong nỗi nhớ sẽ trẻ mãi và chẳng bao giờ già.
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 01/08/2012 00:20
Biết là thế mà vẫn tiếc cái câu..."nhìn những hai cây hai bên đường trầm mặc"...
Nhưng tác giả đã sửa rồi, rõ ra là độc giả chỉ giỏi vơ vào...
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 25/07/2012 13:31
ĐN lại thấy để thế cũng rất hay, có một ngầm ý...rất riêng của tác giả chăng?
Chằn đọc kỹ quá ha.
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 23/10/2011 00:24
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Đồ Nghệ vào 23/10/2011 01:02
Cảm ơn tác giả Từ Nguyễn với bài thơ "Còn đó ít nhất một người". Trong một bài hát phổ thơ Hữu Thỉnh, ĐN đã nhớ mãi câu có ý rằng biển cậy mình dài rộng bao la là thế, nhưng chỉ "vắng cánh buồm một chút đã cô đơn"...
Với bài thơ này, ĐN đọc mà man mác buồn, có mấy ai mà chẳng một lần "ngồi một mình nhìn đêm rất sâu", hay không thiếu những khi đắm mình trong bao hoài niệm, để rồi"đôi khi mưa vẫn về/Những hạt buồn rơi trên lối xưa...". Chao ơi! Sao mà muốn nén được lòng, muốn thắp lên được ngọn lửa hồng, muốn không chơi vơi muốn không tuyệt vọng mà vẫn không sao làm được...Phải chăng đó là những khi ta rơi vào vòng xoáy của sự cô đơn và thất vọng khôn cùng bởi ta chẳng còn ai, dẫu ít nhất là "còn đó một người"?...
Thật hạnh phúc và ấm áp biết bao nhiêu khi trong cuộc đời này ta vẫn còn ai đó nghĩ về ta, nhớ về ta và ta "còn đó ít nhất một người".
Cảm ơn Từ Nguyễn, cảm ơn bài thơ và hy vong rằng trong đời ta sẽ luôn được nghe "cung đàn khơi mấy tiếng" để luôn "Xua đi những âm thầm riêng ta".
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 25/07/2010 10:52
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Đồ Nghệ vào 25/07/2010 10:54
"Tỳ bà hành", tuyệt phẩm thi ca của nhà thơ lớn đời Đường Bạch Cư Dị có lẽ là một trong những bài thơ Trung Hoa có “tầm phủ sóng” rộng nhất với người thưởng thức Việt Nam nhiều thế hệ.
Chỉ cần nhìn vào sự kiện bản dịch Việt ngữ của tác phẩm này đã trở thành ngón nghề tủ của hầu hết các đào nương ca trù danh tiếng, và là tiết mục gần như không thể vắng mặt trong những cuộc “chát tom tom chát” tự cổ chí kim là đủ rõ. Nhưng không chỉ có vậy, ở vị trí một danh tác của văn chương cổ Trung Hoa, Tỳ bà hành còn, trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo ra từ nó một phổ hệ những bài thơ có chung dạng thức Đàn - Trăng - Nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu...”
ngay từ những câu đầu tiên, Tỳ bà hành đã phác ra một bối cảnh không - thời gian đặc định: mùa thu, đêm, bến sông vắng. Trên bối cảnh ấy, đã diễn ra cuộc tao ngộ “bình thủy tương phùng” giữa hai kẻ tồn tại “bên lề”: một ông quan - nghệ sĩ bị biếm trích và một ca kỹ ở buổi hoàng hôn của nghề nghiệp. Như thế, và chỉ cần môtíp như thế là đã quá đủ để các nhà thơ lãng mạn Việt Nam, những người luôn sống với cảm thức tiền định rằng thế giới này là Tôi và phần còn lại, lấy đó làm môtíp chủ đề cho những biến tấu thi ca của mình. Vũ Hoàng Chương, người thơ tự nhận mình là một cá nhân thuộc về những kẻ “bị quê hương ruồng bỏ giống loài khinh” và những kẻ “đầu thai nhầm thế kỷ”, chỉ cần một đêm trăng cắm thuyền trên sông lạ là đã ngay lập tức sống trong nỗi sầu Tầm Dương:
“Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ
Trăng thượng tuần cao sáng ngập bờ
Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi
Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ...
Cánh rượu thu gần vạn dặm khơi
Nẻo say hư thực bóng muôn đời
Ai đem xáo trộn sầu kim cổ
Trăng nước Đà giang mộng Liêu trai”
(Đà giang)
Trong thi phẩm này, ở hai câu:
“Đè theo đôi tiếng tỳ hư ảo
Dâng tới thuyền ai ngủ bến không”,
không khó lắm để chúng ta nhận ra ngọn nguồn xa xôi của nó là một ý thơ trong bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế:
“Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
Chùa Hàn Sơn nằm ở ngoài thành Cô Tô, nửa đêm tiếng chuông tìm đến với khách trên thuyền). Tuy vậy, điều đó chỉ là thứ yếu, căn bản thì lực hướng tâm của Đà giang vẫn là Tỳ bà hành. Không chỉ bởi trong bài Đà giang tác giả đã hai lần nhắc đến từ Tầm Dương, mà chính là bởi sự thể hiện của cái dạng thức Đàn - Trăng - Nước ở đó. Một sự thể hiện rất đặc biệt. Có Trăng, có Nước, Trăng thật và Nước thật ( Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ/ Trăng thượng tuần cao sáng ngập bờ) nhưng Đàn thì chỉ là âm thanh trong vọng tưởng, âm thanh như từ tiền kiếp đã chờ sẵn để dội vào hồn thi nhân ( Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi/ Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ). Một thứ “đồng thanh tương ứng” giữa những kẻ mang căn bệnh “u uất nỗi chơ vơ”, cho dẫu họ không cùng thời đại, không cùng chủng tộc. Vậy nên câu hỏi ở cuối bài ( Ai đem xáo trộn sầu kim cổ/ Trăng nước Đà giang mộng Liêu trai)xuất hiện như là một câu hỏi không cần có câu trả lời.
Nếu Vũ Hoàng Chương bắc một nhịp cầu đến bến Tầm Dương từ Đà giang, thì nhịp cầu ấy của Văn Cao lại được bắc từ Hương giang. Điểm khác biệt cơ bản giữa Đà giang và Một đêm đàn lạnh trên sông Huế là ở chỗ: Đà giang là tiếng nói độc thoại, cho mình, Đà giang không có tiếng đàn thực vì hoàn toàn thiếu vắng người chơi đàn; còn Một đêm đàn lạnh trên sông Huế là tiếng nói hướng tới một người nghe, tiếng đàn ở đây là tiếng đàn có thực vì có người chơi thực, và đó là sự hoán vị nếu so với Tỳ bà hành: người chơi đàn là chủ thể xưng Tôi, chứ không phải là người kỹ nữ như trong Tỳ bà hành. Tuy thế, thật thú vị khi, giống như Đà giang, trong Một đêm đàn lạnh trên sông Huế xuất hiện những câu phảng phất vị của Phong Kiều dạ bạc. Đọc hai câu:
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi”
hẳn là người ta phải nhớ đến hai câu của Trương Kế
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
phong ngư hỏa đối sầu miên”
(Tản Đà dịch tuyệt hay:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ).
Trong bài thơ của Văn Cao, người đọc có thể nhận thấy rất rõ dấu ấn của cái chủ ý tạo nên tính nhạc bằng thủ pháp láy từ, láy câu (các từ trong câu đều là thanh bằng). Hãy thử đọc những câu:
“Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
Này em hát khúc tương tư nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru”
ta sẽ cảm nhận được cái miên man sông nước, cái dư âm như bất tận của giọng ca Huế trên sông Hương. Nhưng quan trọng hơn, bài thơ là dấu ấn của tình tri kỷ được hình thành qua âm nhạc, một cuộc tao ngộ khiến cho song phương, người đàn người hát, cơ hồ quên cả thời gian và không gian:
“Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà...”
Bởi thế mà giờ phút chia tay diễn ra đầy lưu luyến:
“Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh”.
Nỗi sầu biệt ly như đã từ người mà ngấm vào đàn vào phách. Nỗi sầu ấy còn như kéo dài qua mười mấy thế kỷ đằng đẵng, từ “Giang Châu tư mã đượm màu áo xanh” trong thơ của Bạch Cư Dị đến người mang “vạt áo xanh” trong thơ của Văn Cao.
Nói đến phổ hệ những thi phẩm Việt Nam có chung dạng thức Đàn – Trăng - Nước có thể được quy chiếu vào “mẫu gốc” là bài thơ Tỳ bà hành, tất phải nói đến Nguyệt cầm của Xuân Diệu:
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân…
Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.
Nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học đã viết về thi phẩm này và đã chú ý đến tính chất “lạ” của nó. Hoài Thanh nói đến “cái xôn xao gửi vào những hàng chữ lạ lùng này”. Với câu:
“Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”,
Hoàng Ngọc Hiến thú nhận “vẫn chưa hiểu câu thơ này, nhưng càng ngày càng thấy hay”... Có thể nói, Nguyệt cầm , trong phổ hệ Đàn - Trăng - Nước, là thi phẩm ít “dính líu” đến Tỳ bà hành nhất, cho dẫu có một lần chữ Tầm Dương được nhắc đến ( Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người). Nguồn cảm hứng ở Nguyệt cầm không phải là mối quan hệ tri kỷ giữa những kẻ “bên lề” hay nỗi sầu ly biệt sau một đêm trăng nghe đàn trên sông, mà là bản thân âm nhạc, là nhạc cảm, là “sầu âm nhạc” - như chính cụm từ Xuân Diệu đã sử dụng trong bài. Đặt cạnh các bài thơ của Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Văn Cao, thì đây là một biến tấu rất xa trên chủ đề chung.
Trong bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca in ở đầu thi tuyển Thi nhân Việt Nam , khi đi tìm những nguồn của Thơ Mới, Hoài Thanh đã nhận ra một nguồn quan trọng: thơ Đường. Dấu ấn của Đường thi trên thơ ca lãng mạn Việt Nam trước 1945 đương nhiên không chỉ là những hình thức thể loại đã trở thành mẫu mực của nó (tập thơ Mùa cổ điển của Quách Tấn là một ví dụ tiêu biểu), mà còn ở các hệ đề tài và ở sự gợi tứ gợi hứng cho những biến tấu trên các hệ đề tài ấy. Phổ hệ các bài thơ có dạng thức Đàn - Trăng - Nước xuất sinh từ Tỳ bà hành cho thấy rõ điều đó. Có thể nói, đó chính là những vọng âm Việt Nam từ một bài thơ thuộc vào hàng tuyệt phẩm của thơ ca cổ Trung Hoa. Nói chung, đây là điều bình thường ở mối quan hệ văn học vùng, giữa một nền văn học hạt nhân với một nền văn học vệ tinh. Điều bất bình thường chỉ là câu chuyện của thời hiện tại, khi mà Đường thi tỏ ra không còn sức hấp dẫn với sáng tạo của các nhà thơ Việt Nam như trước. Không phải vì Đường thi đã “bớt” hay, mà dường như vì trong nền thơ của chúng ta, đã qua rồi cái thế hệ những thi nhân đa văn hóa như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Văn Cao... những người xuất thân Tây học nhưng luôn nỗ lực với Hán học, hiểu và yêu những giá trị của văn chương cổ.
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 11/04/2010 09:34
Dòng sông khát
Hẹn tắm
Em hẹn sông Hương em đến tắm
Nước khát hoài…sóng ngực em đâu
Chuyến tàu xa hút…sông không nói
Nhỏ nhắn chờ em…khó bạc đầu!
Hoàng Cầm.
(Tạp chí Thế giới mới số 78,1994)
Tản Đà dịch “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” thành “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Thật là thần bút! Đọc cứ thắt ruột thắt gan, những nút thắt không gay gắt mà mênh mang, vô định, không dứt, nửa như làm người ta già mau, nửa như xui người ta trẻ lại.
Nhưng một con sông, dù phải “gánh” nỗi đoạn trường của con người, cũng chỉ “sử nhân sầu”, khách thể thôi, vô tình lắm. Sông Hương không thế. Sông đích thân nghe hẹn, rồi mong, rồi khát, rồi lặng lẽ thề không cho đầu bạc.
Lời nhắc khẽ khàng, như tâm sự:
Em hẹn sông Hương em đến tắm.
Em hẹn với sông và sông đã nghe rất thấu. Cho nên, khi em quên, “phép lạ” đã xảy đến. Nỗi khát của dòng sông. Vâng, dễ chi làm cho nước khát, nếu không phải là cái gì đáng … khát! Sóng ngực em, vài gợn thôi, mỏng mảnh, dịu dàng nhưng là sóng lớp lớp, sóng lớp lớp, vô tận nồng nàn, vô tận thơm tho, phả vào đời người, ngấm vào cuộc sống, không bao giờ dấu phai. Sóng dòng sông là gió tình cờ ghé qua. Sóng ngực em là hơi thở tỏa ra với bao nỗi gừng cay muối mặn. Sông Hương chỉ còn có gió, nỗi khát khôn nguôi. Sóng nhạt hối hả xô nhau tìm sóng nồng, mà em đâu không đến.
Nước khát hoài… sóng ngực em đâu
Người ta rùng mình sau câu “nước khát”. Như thể vừa nhận một “cú” ân sủng. Cụm chủ - vị nghịch lý này có vẻ đảo lộn “pháp thể”. Suy tưởng trong ta cũng không biết đến bao giờ mới bình ổn lại được. Ta bị cuốn phăng trong một thứ trái lạ, do nỗi nước khát khơi nguồn. Dấu ba chấm (…) kéo dài nỗi khát đến vô biên. Và bất ngờ, sừng sững một kho tàng : sóng ngực em. Bài tứ tuyệt đóng lại bằng hai câu gập ghềnh:
Chuyến tàu xa hút …
sông không nói
Nhỏ nhắn chờ em… khó bạc đầu!
Những dấu ba chấm (…) ngắt quãng câu thơ. Câu trên là “nghìn trùng xa cách” và một nỗi thinh lặng, câu dưới có hai phần, không phần nào đủ, chênh vênh ở ranh giới của một sợi tóc. Em không đến. Dòng sông lặng lẽ đợi chờ. Niềm hy vọng, chờ mong, dồn nên thành nỗi khát, như những gợn sóng lăn tăn trên dấu môi khô. Thời gian như ngưng lại, khắc khoải, không làm nổi nỗi bạc đầu.
Tùng Thi
(Thế giới mới số 84-1994)
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 11/04/2010 09:21
Hẹn tắm
Em hẹn sông Hương em đến tắm
Nước khát hoài…sóng ngực em đâu
Chuyến tàu xa hút…sông không nói
Nhỏ nhắn chờ em…khó bạc đầu!
Hoàng Cầm.
Tạp chí Thế giới mới số 78,1994,Hà Nội.
Quả là khó nói, cùng một tác giả Hoàng Cầm, cùng một bài thơ nhưng lại có đến hai bản khá khác xa nhau cả câu chữ lẫn nghệ thuật. Đành chép ra đây để các bạn tham khảo và bàn luận, may ra ai đó có được lời giải thích thuyết phục cho những điểm khác nhau này.
Ánh trăng nhẹ gót sương ngàn
Em đi như dạo bản đàn Sô-panh
Bước đi nhẹ nữa bên mình
Kẻo mai bóng gấu lại rình nuốt trăng
Ngón tay nhẹ nữa búp măng
Kẻo mai phím nguyệt nặng bằng Thiên Sơn
Phai đi nhạt nữa giận hờn
Kẻo mai trăng ngậm đẫm hồn Trương Chi
Trong vòng tay vẫn cứ đi
Bá Nha chợt khóc
Tử Kỳ chợt thương
Nghe anh,sa mạc phố phường
Nhớ ngôi sao lạc đêm trường
Phi Châu.
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 30/01/2010 02:29
Có một dòng sông vẫn hát
Dẫu sương phủ trắng đôi bờ
Tháng năm trôi hoài nỗi nhớ
Sông về biển, bờ bơ vơ...
Gửi bởi Đồ Nghệ ngày 08/10/2009 01:29
Mong Ban Kiểm duyệt xem lại câu "Hết làng, hết ruộng thôi đi về" ở bản do bạn YuKiNa gửi. Tôi có chép tay bài này từ lâu và có rất nhiều câu từ khác với bản của Thi Viện, nhưng bởi chép tay nên cũng có thể "tam sao thất bản" nên tôi không dám chắc bản của mình đúng, song câu thơ nói trên theo tôi thì phải là "Hết làng đến ruộng thoi đi về" như bản tôi chép tay có lẽ hợp lý hơn chăng? Hai câu cuối bài thơ : "Mắt tôi ôm hết cả đồng xanh / Cả dáng hình anh thành bức tranh", tôi có tham khảo một bản nữa trong Thi Viện thì thấy ghi thế này: "Mắt tôi ôm hết cả đồng xanh / Cả dáng hình anh trong bức tranh". Có lẽ cũng hợp lý hơn. Tiếc là không có bản đáng tin cậy để so sánh chỉnh sửa, vì thế, nếu được, mong Ban Kiểm duyệt xem xét và chỉnh sửa.
Trang trong tổng số 10 trang (99 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối