Trang trong tổng số 11 trang (109 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 10 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Ba sinh rảnh rỗi được nhàn thân,
Hai bận Hàn lâm, ơn thánh quân.
Ngày tháng vào ra nơi thánh miếu,
Đêm đêm soi rọi nến sen vàng.
Thẹn mình có lộc nhà treo thú,
Đem bút vẽ bầu, ai giỏi văn?
Son tía người nào không biết quý,
Hỏi chi đến chuyện dẹp thông đàng?

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 09 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Tài học khôn so các bậc hiền,
Ngọc Đường, Kim Mã lạm làm tiên.
Ngâm nga cười khẩy thơ vô lực,
Khuây khoả mới hay rượu có quyền.
Nhớ bạn giãi lòng xanh núi ngoại,
Thương cha nhớ mẹ trắng mây biên.
Rỗi nhàn không dưỡng cho nhân khí,
Chẳng hổ với người thẹn với thiên.

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 08 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Thời thịnh mà cam chịu phận nhàn,
Biết ai tâm đức kết tình thâm?
Vào nơi nhàn trướng mà vô ích,
Đóng cửa phòng văn để tỉnh thân.
Chẳng chịu xu thời nhờ kỹ xảo,
Vẫn còn chân tính bởi lương năng.
Chớ than cửa bắc nơi nghèo khổ,
Giàu đạo giàu thơ chẳng thể bần.

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 05 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Chẳng hỏi mất dê, được ngựa không?
Tĩnh tâm đọc Dịch, nghiệm cùng thông.
Đã hay thế sự nồng rồi nhạt,
Mới biết cơ trời vụng hoá khôn.
Thân phận hình dung đâu bởi ngoại,
Thức thời chén rượu lại là hơn.
Tấc lòng muốn báo đền ông tạo,
Đây chén người xưa gửi Tỷ công.

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 04 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Nghèo bệnh than ôi cứ bám ta,
Nhìn trời chẳng biết làm sao mà.
Lợi không ràng buộc lòng như sắt,
Buồn cứ giày vò tóc điểm hoa.
Chẳng chút tài gì mưu giúp nước,
Hiềm ba thưng gạo đặng nuôi nhà.
Biết đâu gặp được thời vua thánh,
“Đá trắng” nực cười ai đó ca.

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 03 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Ai biết đêm qua bàn học sĩ,
Ngẩng trông bóng nắng đã gần tròn.
Nay lo Phạm Thúc còn đang rét,
Xưa giễu Tô Tần no đủ hơn.
Vũ trụ giúp người nên nghiệp lớn,
Đất trời cho lão được nhàn luôn.
Cười mình: còn muốn mong gì nữa?
Ôm mãi trong lòng một tất son.

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 02 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Nói chi vụng khéo với “kinh quyền”,
Hương lửa phúc nhà nay được nên.
Đời chẳng bon chen ai đó mặc,
Ta may nhàn hạ, lời xưa truyền.
Say chén quan hà, xong vụ việc,
Tan chầu thơ phú, mộng điền viên.
Dạy học đôi khi đem giảng Dịch,
Hiềm vì học lực kém Y Xuyên.

Ảnh đại diện

Nhàn vịnh kỳ 01 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Trước thuật chẳng qua rỗi với nhàn,
Nhân gian một mái được yên lành.
Vua ban lượng cả may không nhận,
Trời phú tính nhân bỏ chẳng đành.
Nhục nỗi tài hèn khi loạn lạc,
Ích gì chức thấp lúc đương quan.
Nỗi niềm dân mọn sao quên được,
Mong thấy rồng nằm trỗi cõi Nam.

Ảnh đại diện

Đề Vũ Thị từ (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Xa cách ba đông, vẹn tiết trinh,
Nhớ nhung riêng tỏ với thần minh.
Chồng ngu chẳng hiểu lời vô cớ,
Cha giả càng đeo tiếng bất minh.
Sóng nước ngày nay còn uất hận,
Bóng đèn đêm ấy quá vô tình.
Giải oan xây miếu đều vô ích,
Thơ viết vì ai tỏ bất bình.

Ảnh đại diện

Vịnh Trưng Nữ Vương (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Vì nước lòng sôi ngọn lửa hồng,
Má đào nổi dậy, chuyện vô song.
Ngàn năm khăn yếm kinh hồn Nguỵ,
Trăm trận gươm đao miệt tướng Đường.
Nhờ khách yêu kiều non nước tráng,
Thẹn ai quắc thước biển xanh trong.
Cột đồng chẳng vấy danh nhi nữ,
Lẫm liệt trời Nam, mãi rạng gương.

Trang trong tổng số 11 trang (109 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: