Trang trong tổng số 10 trang (96 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tây giang nguyệt kỳ 1 (Tào Tuyết Cần): Bản dịch của Nam Long

Vô cớ ôm sầu chuốc não,
Có khi giống dại như ngây.
Dẫu rằng trông được mẽ bề ngoài,
Trong bụng rác rơm hết thảy.

Thất thểu chẳng hay thời cuộc,
Ngu si sợ đọc văn bài.
Hành vi cổ quái, dở gàn hoài,
Thây kệ miệng đời chửi kháy.

Ảnh đại diện

Tây giang nguyệt (Tào Tuyết Cần): Bản dịch của Nam Long

Trắng điểm loanh quanh vườn Hán,
Màu phô ngút mắt đê Tuỳ.
Ba xuân gửi cả gió đông về,
Trăng sáng bông mai mộng mị.
Mấy chốn đình đài hoa rụng?
Ai nhà mành sáo tuyết che?
Giang Nam, Giang Bắc khác nhau gì,
Chỉ trĩu ly sầu một kẻ.

Ảnh đại diện

Tây giang nguyệt - Hoạ Lật Viên vận giản Hoà Phủ (Tùng Thiện Vương): Bản dịch của Nam Long

Run rẩy anh đào theo gió,
Mịt mù thược dược tuôn mây.
Mơ về người đẹp lúc chia tay,
Là nỗi tương tư, có phải?

Rượu sánh hoa tươi vứt cả,
Oanh chuyền yến hót lạc loài,
Vò lan, siêu đá, trướng đen này,
Hương sách, vị trà giữ lấy.


Bản cụ Phan Văn Các dịch, thấy cách dịch và chọn từ ngữ rất êm ái, tuy nhiên, có mấy chỗ chuyển vận từ bằng sang trắc và luật đối chưa thật chỉnh so với cách luật của điệu từ Tây giang nguyệt. Trên bản của cụ, tôi thấy có thể sửa lại.
Ảnh đại diện

Ỷ la hương (Đào Tấn): Bản dịch của Phạm Văn Ánh

Nhạn ải về nam,
Mây sông hướng bắc,
Giục giã, tù và u uất.
Gấm vóc giang sơn,
Mây biếc, mặt trời gần tắt.
Gió đang lên, ác lặn hoang thành,
Mưa lại trút, khói như tơ dệt.
Trai quê kệch, vì nước hi sinh,
Giáo dài, quất ngựa tìm giặc giết

Xương Liêu Dương ai kẻ biết,
Chỉ thấy những nấm mồ hoang,
Cô đơn bi thiết.
Ngựa Hồ, bụi Yên,
Kinh sợ trong mơ chưa hết.
Hận thư sinh, luống phụ thời gian,
Viết chi lắm, câu thơ dứt ruột.
Giữa canh khuya, giấc mộng miên man,
Nghe gà vung kiếm múa.

Ảnh đại diện

Ỷ la hương (Đào Tấn): Bản dịch của Nam Long

Nhạn ải nam về,
Mây sông bắc ruổi,
Than vãn âm tù và nổi.
Gấm vóc non sông,
Mây biếc giăng giăng gần tối.
Gió dâng lên, ác lặn thành hoang,
Mưa trút xuống, khói bay tơ rối,
Gã thô hào, vì nước hy sinh,
Diệt thù thúc ngựa vung thương tới.

Liêu Dương xương trắng ai hỏi,
Chỉ thấy mồ hoang nhà nào,
Chơ vơ tàn lụi.
Ngựa Thát, bụi Yên,
Mộng vẫn kinh lo một nỗi.
Bực thư sinh, hoài phí thời gian,
Còn đắm đuối, mấy câu buồn tủi.
Giữa canh thâu, đương bén giấc nồng,
Múa gươm khi gà gọi.

Ảnh đại diện

Độ Tang Càn (Giả Đảo): Bản dịch của Nam Long

Mười sương khách trọ Tinh Châu,
Hàm Dương khuya sớm ngóng mau về nhà.
Tang Càn sao mới vượt qua,
Tinh Châu ngoái lại đã là cố hương.

Ảnh đại diện

Nam hương tử - Hà xứ thối Ngô câu (Nạp Lan Tính Đức): Bản dịch của Nam Long

Tôi kiếm báu nơi nao?
Một mảnh thành hoang soi nước mau.
Hồi trước đây từng là chiến địa,
Ầm ào.
Ngọn cỏ vùng biên sương gió thâu.

Nghiệp bá bỗng còn đâu,
Thúc ngựa khua mâu thoắt bạc đầu.
Chớ rẻ xuân xanh mà đổi lấy,
Phong hầu.
Anh kiệt cũng vùi nấm mộ sâu.

Ảnh đại diện

Vịnh Hồ Tây (Nguyễn Công Trứ): thảo luận thêm

Đây là lời một bài ca trù, việc đưa 2 câu chữ Hán vào đó cũng thường thấy trong thể cách của ca trù. Tuy nhiên, trích dẫn có đúng nguyên văn thơ cổ hay không lại là do ý đồ của tác giả. Vì vậy, phải kiểm tra lại văn bản chữ Nôm gốc chép bài này của Nguyễn Công Trứ chứ không phải kiểm tra lại thơ của Lưu Thương.

Ảnh đại diện

Độ Nhị hà khiển đề (Đinh Nho Hoàn): Dịch nghĩa

Tôi thấy bản dịch nghĩa cũ có nhiều chỗ làm qua loa nên thử dịch lại như sau:

Cảm hứng đề thơ khi vượt sông Nhị Hà

Trong mùa xuân mới, thuyền lướt đè cái lạnh muộn màng,
Sau khi kết thúc tiệc ở đình ven sông thì vượt qua bờ sông.
Hương trời cho thấy xuyên qua nghìn tầng nước,
Dải lụa biếc (con sông) trải ra mười dặm sóng.
Chèo quế sào lan lần đầu tiên thử thách nguy hiểm,
Niềm trung của bề tôi, cái hiếu của người con có lợi trong việc giải trừ khó khăn.
Đến ngày thành công (trở về), cột buồm hoa giương cao,
Lại đến thăm chơi bến cũ ngắm nhìn cùng với nụ cười.

Ảnh đại diện

Độ Nhị hà khiển đề (Đinh Nho Hoàn): Về bản dịch nghĩa bài thơ "Độ Nhị Hà khiển đề"

Tôi đọc chữ Hán và dịch nghĩa thấy ngờ ngợ chỗ "...qua sông được khô ráo". Tra lại thấy, 江干 có nghĩa là 江边;江岸。 南朝 梁 范云 《之零陵郡次新亭》诗:“江干远树浮,天末孤烟起。” 唐 王勃 《羁游饯别》诗:“客心悬陇路,游子倦江干。” 清 刘献廷 《广阳杂记》卷四:“﹝ 王国良 ﹞至江干为渡船所苦,遂露宿江滸,平明始得渡归。” 姚雪垠 《李自成》第二卷第三十章:“杨柳若干株,摇曳江干;小桥村市,出没烟云水气之中。” Tóm lại là chỉ bờ sông thôi.
Bản dịch nghĩa đã sai cho nên những bản dịch thơ có cái ý "tạnh ráo", "sông trơ", "khô ráo" đều không đúng cả.
Ngoài ra, tôi thấy ở tiêu đề chữ "Độ" cũng nên thêm bộ Thuỷ cho rõ.

Trang trong tổng số 10 trang (96 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: