Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tam Tương tạp vịnh kỳ 5 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Sáo chiều đáp bài ca chèo lái,
Thơ trên hồ ngâm mãi ngày qua.
Cỏ thơm tít tắp bờ xa,
Trăng vô tình điếu Mịch La xuôi dòng.

Ảnh đại diện

Tam Tương tạp vịnh kỳ 3 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Vùng Tương Nam, phong lưu trang phục,
Hoa đầy đầu, áo cúc đẹp xinh.
Kìa nơi đệ nhất hữu tình,
Là thềm bậc đá với thành giếng xây.

Ảnh đại diện

Tam Tương tạp vịnh kỳ 2 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Cây nhà ai bóng tà bảng lảng,
Mái bếp chiều khói thoảng bay hơi.
Bến sông ồn tiếng nói cười,
Chợ tan, nón dép người người về qua.

Ảnh đại diện

Tam Tương tạp vịnh kỳ 1 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Mấy tuần trăng Tam Tương nấn ná,
Khói Sở Giang nhuốm nửa áo này.
Mộng về quê cũ đang say,
Ầm ào tiếng sóng bỗng lay gối nằm.

Ảnh đại diện

Tương Ly chu trung vịnh hoài (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Đất Quế Ngạc thuộc khu Việt cổ,
Đẩy cánh song nhìn rõ ba chòm.
Sông từ Phần Thuỷ chia dòng,
Núi sang nẻo khác từ vùng Toàn Châu.
Thuyền lơ lửng: nỗi sầu lữ khách,
Trăng lẻ loi: di tích nghìn năm.
Chưa xong yên ngựa nhọc nhằn,
Trong thuyền lại ngán bắp chân héo gầy.

Ảnh đại diện

Tiểu bạc (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Khói xa, gần lại đôi bờ
Phút giây ghé bến đò xưa dừng chèo
Vẳng nghe rừng rậm, chim reo
Hoa u tính, cảnh vắng teo núi đồi
Rêu xanh che vết chân người
Gợi lòng quê biếc ngời ngời bóng dâu
Mái tranh thấp thoáng nông sâu
Ai là ẩn sĩ ở đâu chốn này?

Ảnh đại diện

Ngô Giang tạp vịnh kỳ 3 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Mộ thiêng vua Thuấn nơi đâu?
Núi Nam nhắc chuyện phiên chầu đông vui.
Ngọn Cửu Nghi, ánh chiều soi,
Lửng lơ một mảnh mây trời bâng khuâng.

Ảnh đại diện

Ngô Giang tạp vịnh kỳ 2 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Giữa xuân đào nở, nước lên,
Phu chèo tìm chão neo thuyền, đêm lo.
Biết đâu mười dặm khách du,
Vẫn vui đàn sáo hát hò năm canh.

Ảnh đại diện

Ngô Giang tạp vịnh kỳ 1 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Ven sông thuyền vẽ ráng chiều,
Nước trôi trên bến tụ nhiều hoa rơi.
Xót thương son phấn đau đời,
Xưa nay oan nghiệt, tơi bời xiết bao!

Ảnh đại diện

Tử Lộ vấn tân xứ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Bè ra biển, nghĩ lánh đời,
Hỏi bến đò, đâu phải lời viển vông.
Nhìn năm rừng ở ven sông,
Mặt trời lặn, thấy bay tung bụi vàng.

Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: