Trang trong tổng số 4 trang (39 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi tducchau ngày 05/05/2009 03:07
Chết lìa nhau, khóc nghẹn,
Sống lìa nhau, xót thương.
Giang Nam đầy khí độc
Người đi đầy bặt tin.
Cố nhân gặp trong mộng,
Nhuung nhớ vẫn triền miên.
Thân thì mắc phải lưới
Cánh lông đâu băng miến!
Phải chăng hồn đang sống,
Đường xa, ai thể lường.
Hồn về, rừng phong biếc
Hồn đi, ải đen ngòm.
Nóc nhà trăng xế xế
Trăng soi ai trên đường!
Nước sâu sóng gió dữ
Mong thoát miệng thuồng luồng!
Gửi bởi tducchau ngày 04/05/2009 12:46
Trong "Tam bách thủ" của Trần Trọng Kim, tựa bài nầy gồm 11 chữ, như trên Thi viện chúng ta.
Nhưng trong "Đường thi tam bách thủ bổ chú" do Hành Đường thoái sĩ soạn và Trần Bá Anh bổ chú, thì chỉ tựa bài gồm 10 chữ, không có chữ "tiễn"...
Và, cái lầu, nơi có cái "sự" nầy, thực ra, phải có tên là "Tạ Diểu", không phải là "Tạ Diễu" - (Xin xem thêm ở phần Chú thích)
Bản dịch của Trần Trọng Kim
TIỄN BIỆT HIỆU THU THÚC VÂN
Bỏ ta đi đó đã rồi
Là ngày bữa trước vãn hồi được sao
Lòng ta rối loạn vì đâu,
Vì ngày hiện tại dồi dào nỗi lo
Ngoài muôn dặm gió thu đưa nhạn,
Trên lầu cao hãy cạn chén mời,
Kiến An văn vật Bồng Lai
Trung gian Tiểu Tạ trổ tài thanh tao
Đem dật hứng chí cao bay tít
Lên trời xanh, nhật nguyệt xem chơi
Rút dao chém nước nước trôi
Tiêu sầu nhấc chén, lại đôi nỗi sầu
Ở đời vừa ý được đâu,
Sáng ngày xoã tóc tiêu dao trên thuyền.
Bản dịch nghĩa của Ngô Văn Phú
TRÊN LẦU TẠ DIỂU Ở TUYÊN CHÂU
TIỄN QUAN HIỆU THƯ THÚC VÂN
Bỏ ta mà đi
Hôm qua đã qua không sao giữ lại,
Làm rối lòng ta
Cái ngày hôm nay là ngày lắm chuyện lo phiền.
Gió dài muôn dặm tiễn nhạn mùa thu,
Trước cảnh này, có thể say ngất trên lầu cao.
Văn chương chốn Bồng Lai cốt cách đời Kiến An
Trong đám này Tiểu Tạ lại thanh tao rất mực.
Lòng đầy tứ thơ phóng khoáng,
ý mạnh mẽ tung tẩy.
Muốn bay lên trời xanh ngắm trăng sáng
Rút dao chém nước, nước vẫn chảy.
Nghiêng chén tiêu sầu, sầu thêm sầu,
Người sống trên đời nào được như ý,
Sớm mai xoã tóc, thả thuyền con rong chơi.
Bản dịch thơ của Ngô Văn Phú
TIỄN QUAN HIỆU THƯ THÚC VÂN TRÊN LẦU TẠ DIỂU
Bỏ ta mà đi
Ngày hôm qua giữ lại làm sao!
Làm rối lòng ta
Ngày hôm nay lắm nỗi phiền ưu
Gió rong muôn dặm đưa thu nhạn,
Cảnh ấy nên say ngất trước lầu.
Văn chương Bồng Lai, Kiến An cốt cách,
Ông Tạ tứ lạ, ý thanh tao,
Muốn lên trời xanh ngắm trăng sáng
Vung dao chém nước, nước chảy ào.
Ở đời, người đâu được xứng ý,
Thuyền con, xoã tóc, sớm khua chèo.
Gửi bởi tducchau ngày 04/05/2009 00:31
Giữa đồng chuốc chén dây dưa,
Tôi nay tiễn bác lại vừa tiễn xuân.
Sang năm ngày đón Đông quân,
Xin đừng làm kẻ lần khân chưa về.
Đưa cho vợ
Ba trăm sáu mươi ngày trong một năm.
Ngày nào cũng như ngày nào đều say bét.
Tuy có chồng là Lý Bạch.
Nào khác chi vợ Thái thường.
Gửi bởi tducchau ngày 02/05/2009 06:59
Tuyệt! Đồng thuận! Vậy ra tducchau và bạn "cùng phe"!
Xin phép các bạn - Xin được bày tỏ một chút về ...
"Lão ông du tường tẩu" - Điều này chứng tỏ bấy giờ việc bắt lính thô bạo đã xảy ra thường xuyên tới mức tạo ra phản ứng rất bặt trong dân chúng. Ông lão - chứ không phải trai tráng - hoảng hốt tới mức trong nháy mắt có thể vọt qua tường cao! Đủ biết: việc bắt lính đêm, việc bắt phụ lão đã phổ biến tới mức tạo ra "phản xạ có điều kiện"! Mức độ hốt hoảng của ông lão phản ánh mức độ tàn bạo của bọn nha lại và cả mức độ khẩn trương của tình hình chiến sự.
"Lão phụ... "xuất môn khan" - Đọc qua, tưởng đây là câu thơ tầm thường, song, thực ra lại là câu thơ rất quan trọng, có thể xem là nhãn cú (câu mắt) của cả bài, là một nét phục bút tuyệt diệu nâng cao hẳn giá trị tố cáo và ý nghĩa hiện thực của bài thơ. Phản ứng của hai ông bà lão đều rất nhạy, song rõ ràng là một bên cấp, một bên khoan.
"... xuất khan môn" - Nếu "xuất khan môn" (ra coi cửa) thì cả hai đều cấp, câu thơ sẽ mất hẳn ý vị thâm trầm của nó.
Bà lão tin chắc mình không bị bắt nên không vội vàng và có phần bình thản. Thế nhưng... rốt cuộc người bị bắt lại chính là bà!
Đây không chỉ có sự tàn bạo cao độ mà còn là sự tàn bạo đang phát triển, phát triển ngoài dự liệu của dân chúng.
Đối trong thơ cổ phong có một số đặc điểm riêng biệt: không bắt buộc và không có vị trí cố định, không kị trùng chữ, không đòi hỏi phải thật chỉnh... Hình thức đối ở hai câu thứ ba và thứ tư làm cho người đọc lưu ý hơn đến sự khác biệt trong thái độ và cách ứng xử của ông lão và bà lão. Hình ảnh hai nhân vật xuất hiện song song ở đây càng làm nổi bật tình cảnh cô đơn của ông lão ở cuối bài và làm nổi bật ý nghĩa của chữ "độc", nhãn tự của câu cuối bài thơ.
Kết, mình ủng hộ Vanachi hiệu chỉnh tiếp ở câu 4. Từ "Lão phụ xuất khan môn" thành "Lão phụ xuất môn khan". Vì: 1. - Những lẽ như đã nêu trên; 2. - Trên các bản của mình có, cũng đều là... "Lão phụ xuất môn khan".
Gửi bởi tducchau ngày 01/05/2009 12:25
Câu 22
如聞泣幽咽。
"Như văn khốc u yết."
泣 - có bản chép là "khốc", như bản hiện chúng ta đang có trên Thi viện.
Nhưng hầu hết các bản đều chép là "khấp". "Khấp" là khóc không thành tiếng - trong văn cảnh, có lẽ "khấp" hợp lí hơn.
Bản dịch nghĩa của Nguyễn Khắc Phi
Thạch Hào lại
(Viên lại thôn Thạch Hào)
Chiều tối chạy vào thôn Thạch Hào,
Có viên lại bắt người ban đêm.
Ông lão vọt tường tẩu thoát
Bà già ra cửa nhòm (1).
Viên lại hò hét sao mà dữ dằn thế!
Bà lão kêu van sao mà khổ thế!
Lắng nghe bà lão tiến lên thưa:
"Ba con trai đều đi thú ở Nghiệp Thành,
Một con trai vừa gửi thư cho biết:
Hai con trai vừa chết trận.
Đứa còn sống qua ngày
Đứa chết thế là hết!
Trong nhà quả không còn người,
Chỉ còn đứa cháu đang ấp vú
Vì có cháu nên mẹ cháu chưa đi,
Ra vào không có lấy một manh quần lành.
Bà lão này tuy sức đã yếu
Cũng xin theo về ngay đêm nay,
Ứng phó gấp rút việc phục dịch ở Hà Dương
Cũng còn nấu được bữa cơm sáng tối (2)".
Đêm khuya tiếng nói im bặt
Vẫn còn nghe tiếng nấc nghẹn ngào.
Sáng mai khách lên đường
Chỉ còn từ biệt một mình ông lão!
... Trên bản dịch của Khương Hữu Dụng, thấy có đặt là "Tên lại ở Thạch Hào", nghe hình như hơi là "cương"! Cho dù 泣 thường có nghĩa là "viên quan, người làm việc cho nhà nước". Có thể đặt lại là "Viên lại ở Thạch Hào". Trên bản của mình có, cũng giống như bản của thầy Phi là: "Viên lại thôn Thạch Hào".
Gửi bởi tducchau ngày 30/04/2009 10:25
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tducchau vào 30/04/2009 10:34
Trong Bạch Hương Sơn Thi tập (Toàn tập Bạch Cư Dị, Quảng Trí thư cục, Hương Cảng xuất bản, không rõ năm) có một bản "Tự khuyến", nguyên văn như sau
Tự khuyến
Ức tích cơ bần ứng cử niên.
Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.
Thập niên nhất đẩu do xa ẩm,
Hà huống quan cung bất trước tiền.
自勸
憶昔羈貧應舉年,
脫衣典酒麯江邊。
十年一斗猶賒飲,
何況官供不著錢。
Dịch nghĩa
Nhớ xưa còn bị giam hãm trong cảnh nghèo túng, tôi đi thi.
Cởi áo ra cầm để lấy tiền mua rượu ở bên sông Khúc Giang uống.
Một đấu rượu mà trong bao năm (mười năm) tôi đã phải mua chịu (trả dần).
Huống chi nay làm quan có bổng lộc nhiều thì có uống mấy cũng chẳng mất tiền gì.
Theo Nguyễn Quảng Tuân, thì:
. Bài thơ mà Tản Đà dùng để dịch, nguyên văn như sau
自勸
憶昔饑貧應舉年,
脫衣典酒麯江邊。
十千一斗猶賒飲,
何況官供不著錢。
(trong phiên âm, còn có bản ghi "Ứng tích cơ hàn...")
Như thế là đã dùng một bản khác với bản trong Bạch Hương Sơn thi tập.
. Bài thơ "Tự khuyến" trong Bạch Hương Sơn thi tập là đúng hơn, vì tác giả muốn nói ở hai câu 3 - 4 rằng: Trong mười năm (nhiều năm) đã phải uống rượu mua chịu từng đấu một thì nay làm quan có nhiều bổng lộc, có uống mấy cũng chẳng mất gì tiền của.
Hơn nữa câu thứ 3 mà viết là "thập thiên nhất đẩu" (mười ngàn một đấu rượu) thì vô lý! Làm gì có giá ấy? Bán cái áo làm sao cho có được mấy ngàn?
Theo ý chúng tôi thì bài thơ chép trong Bạch Hương Sơn đúng hơn và chúng tôi xin dịch lại như sau:
Tự khuyên mình
Nhớ xưa còn túng lúc ra thi.
Thèm rượu Khúc Giang cố áo đi.
Một đấu, bao năm thường uống chịu.
Huống nay lộc nước mất tiền chi.
Nguyễn Quảng Tuân
Gửi bởi tducchau ngày 30/04/2009 09:40
Nhớ năm xưa đi thi đương lúc nghèo đói
Cởi áo ra cầm (cố) để lấy tiền mua rượu ở bên sông Khúc Giang uống.
Mười nghìn một đấu rượu mà còn dám hoang phí uống được.
Huống chi là làm quan đã có bổng lộc thì còn kể chi đến giá trị đồng tiền nữa.
Gửi bởi tducchau ngày 30/04/2009 01:43
Vanachi a! Trên Ngày Nay số 82, 24-10-1937. Cụ Tản dịch câu hai là: "Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về." "thó" chứ không phải "hái", và cụ giải như sau:
Oa: 娃 con gái xinh đẹp. (không phải Oa, 女媧 Nữ Oa)
Thâu: 偷 trộm cắp, thó lấy. (không phải 收 thâu là hái).
Và dịch nghĩa bài nầy như sau:
Trên ao
Cô gái xinh đẹp bơi chiếc thuyền con,
Đi hái trộm hoa sen trắng trở về.
Không biết che giấu lối thuyền đi,
Để trên mặt nước bèo rẽ thành một vệt.
Gửi bởi tducchau ngày 30/04/2009 01:09
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi tducchau vào 30/04/2009 01:12
Mình lại có một phiên bản hơi khác ở câu kết (4), xin đăng nguyên văn:
Sơn hạ túc
Độc đáo sơn hạ túc.
Tĩnh hướng nguyệt trung hành.
Hà xứ thủy biên đối,
Dạ xuân vân mẫu thanh.
(Theo Đường thi tam bách thủ và Đường thi bát bách thủ - Trong Tản Đà Vận Văn thì là chữ "thu": Dạ thu vân mẫu thanh)
1. - Cây xuân. Ông Trang Tử 莊子 nói đời xưa có cây xuân lớn, lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm làm một mùa thu. Vì thế, người ta hay dùng chữ xuân để chúc thọ. Nay ta gọi cha là xuân đình 椿庭 cũng theo ý ấy.
2. - Tục đọc là chữ thung.
(Theo Từ điển Thiều Chửu)
Như vậy, hàm ý của cái kết nầy có nhiều ý nhị, hợp như "xuân... mẫu"...vậy.
Xin bổ xung thêm bản dịch nghĩa:
Ngủ đỗ dưới chân núi
Một mình tới ngủ đỗ dước chân núi,
Lặng lẽ đi dưới ánh trăng.
Có cái cối giã gạo đặt ở đâu bên bờ suối,
Ban đêm nghe thấy tiếng chày giã vào đá vân mẫu.
(Nguồn: THƠ ĐƯỜNG - TẢN ĐÀ dịch, Hội nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP Hồ Chí Minh)
Trang trong tổng số 4 trang (39 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối