Trang trong tổng số 27 trang (264 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

U nhân (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Mây thần vơ vẩn bay đi
Phượng lân nào biết có khi về chầu?
Huệ Tuân nhớ lại năm nào
Hẹn nhau kiếm lối cùng vào bể xanh
Trời cao tin tức vắng tanh
Quên ta, hay bạn cố tình bỏ ta?
Phải chăng trái phép tiên già
Một lầm đủ để người xa mếch lòng
Nói cười giữa sóng mênh mông
Bắt chèo, thuyền chẳng chỉ vùng Bồng Lai
Phù Tang thấp thoáng mặt trời
Cành san hô đón nắng son đỏ hồng
Dập dìu buồm gió, tàn công
Chiều về nắm áo vua Đông han chào
Bọt hoà dãi ngọc ngọt sao
Mơ màng mỗi nghĩ lạc vào khói mây
Tiếng đời chi bận lòng này
Trông về núi cũ đắng cay muôn vàn
Năm Hồ sóng nước mê man
Nghìn thu để mối bàn hoàn xót xa


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Mộ thu uổng Bùi Đạo Châu thủ trát, suất nhĩ khiển hứng, ký cận trình Tô Hoán thị ngự (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Quê người bạn hữu phiền thăm hỏi
Một tháng thư suông vừa một gói
Đầy tớ rặt những chuyện hàn huyên
Thương miệng ích gì cơn rét đói
Lưỡi còn, đường cùng thẹn không khóc
Răng rụng, lòng son đâu có nguội
Đạo Châu lại mới gửi thư sang
Viết dài ba dạo đọc chưa rỗi
Hạt trai bể cả cứ gì nhiều
Ngọc quý non Côn giá khôn đổi
Bỏ chua đất Sở rượu trăm vò
Để héo bờ Tương cúc nghìn bụi
Ngày đứng con cháu phải đỡ mệt
Đêm ngồi đèn dầu còn tốn ói
Nhớ khi mới bổ sang Vĩnh Gia
Má hồng: da trắng màu hoa rọi
Trái ấn phong hầu lấy không khó
Sức ngựa trung phong đi thật giỏi
Tám cõi trông vời bụi chiến trung
Cứu đời phải cậy mặt anh hùng
Dân đen đâu khổ mong yên nghỉ
Quân giặc lăng lonaf chửa dẹp xong
Lưới rách, giềng chùng cần giúm vá
Gươm ban, đàn đắp, chửa phu công
Quách Khâm dâng sớ bầy mưu lớn
Lưu Nghị thưa lời dợn đám đông
Ngày khác chuyện bàn thú còn lắm
Việc binh bác tính khoái vô cùng
Chuốc chén mặt theo đàn sáo trẻ
Múa gươm xuân thấy tuyết sương lồng
Tiệc vui thường nhắc chàng Tô trẻ
Trẻ mặt nhưng mà già chí khí
Nhà tranh ngoài cửa thành vua xưa
Bồ thuốc trong khu chợ cá rẻ
Trước chợ xe tay lúc sánh vai
Bên thành hũ rượu thường kề ghế
Nhà riêng tướng võ lắm vô cùng
Biệt thự tường văn sang đáo để
Cát lạnh vùi cóng con thuồng luồng
Thóc mùa béo nứt đàn chim sẻ
Quan quân trước trận chết chi thường
Trống ốc gầm trời im chửa dễ
Thơ trả lời Bùi, Tô thử coi
Ra vào phải giắt tủi thân tôi
Mau cầm quyền lớn mong hai bác
Giúp nước, phò vua chớ tiếc đời


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Tô đại thị ngự Hoán phỏng giang phố, phú bát vận kỷ dị (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Ông Bàng không đi nhăng
Họ Tô nay khác chi
Lại nghe đọc thơ mới
Câu hay dễ ai bì
Trời đất đảo lộn mãi
Quất ngựa nên cùng thi
Sớm nay nhìn gương trong
Thuốc tiên so kém gì?
Tóc tôi mừng đổi hẳn
Trắng lẫn sợi xanh rì
Đêm qua lửa thuyền tắt
Nàng Tương khóc tỉ ti
Gió phá sóng sông lạnh
Trăm thần chưa dám đi


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Đăng chu tương thích Hán Dương (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Nhà xuân, ta phải lìa mày
Buồm thu dục khách chớ chầy ra đi
Sân rau trước mắt còn kia
Áo bào đã thấy lạnh vì gió sông
Vụng về kiếp sống long đong
Già rồi, đành phụ tấm lòng ngày xưa
Trung Nguyên quân giặc chưa thưa
Đường xa vắng ngắt thư từ viếng thăm
Theo mùa cánh nhạn xa xăm
Cột buồm con quạ quanh năm bay hoài
Nương thân tìm chỗ nghỉ ngơi
Đường trần thôi hẳn ngược xuôi từ rầy


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Nhạc Lộc sơn Đạo Lâm nhị tự hành (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Nhạc Lộc bày riêng vẻ hữu tình
Rừng bao, suối lượn, cảnh chùa xinh
Nền xây ăn xuống hồ Sa Đỏ
Cửa mở trông ra nẻo Động Đình
Gió thổi tháng hè xương Phật lạnh
Nhạc tâu ngày vắng khói hương thanh
Đất thiêng mọc rải hoà non Tuyết
Sư giỏi đều như ngọc bể xanh
Nhà bếp, buồng tăng làm mát mẻ
Tường đền, đợt tháp đứng chênh vênh
Tiếng chim liền cánh vang toà báu
Bóng ác ba chân rọi bức hoành
Huyền Phố dò sông nào chắc chắn
Bồng Lai vượt bể mấy công trình?
Tuổi già, cảnh đẹp, đường gần lắm
Trời ấm, ngày xuân, bước nhẹ thênh
Gậy, dép đi đâu người tóc bạc?
Khói, mây thử dựng túp lều tranh
Ruộng nương bãi Quất xem màu mỡ
Nhà cửa nguồn Đào dễ sắm sanh
Kiện tụng cửa quan coi vắng ngắt
Nhân dân thói tục khá hiền lành
Yên thân thực chỗ chân nên nghỉ
Chạy loạn nào khi mặt phải trành?
Miễn được an nhàn là thú vị
Ra gì phú quý với công danh
Nguồn thơ chẳng sợ khi nào cạn
Kinh Phật từng xem nghĩa đã sành
Hoa nội, chim ngàn là bạn lứa
Dòng sông, đợt núi ấy tâm linh
Qua chơi ông Tống thơ đề vách
Dành nửa phong quang để đợi mình


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Khiển ngộ (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Khom lưng từ dã chủ nhà
Mở buồm, quay lái, xông pha sóng đào
Ngàn tây nắng rọi mây cao
Cõi nam xuân tới nước trào mênh mông
Thi hơi sức với cơn dông
Quên ăn, mất ngủ, mệt công lái đò
Ta đi gặp bước rủi ro
Giã ơn các bác đeo lo, chịu phiền
Thương thay cô gái ngàn trên
Bán rau sắng kiếm lấy tiền thuế vua
Anh chồng chết chỗ đi phu
Làng không chiều lại, miệng tru tréo hoài
Tai nghe, mắt thấy việc đời
Dùi xâu, dao xẻo, đâu thời khác đâu?
Quý nhân há bất nhân nào
Mạng này như thể mớ rau khác gì
Sinh ra trong buổi loạn ly
Đồng tiền nào có thiếu gì kẻ xoay
Quan bòn, lại khoét ghê thay
Buộc lòng trốn lủi bởi tay tham tàn
Mùi hoa, áo chũi mặc tràn
Mừng lòng còn được an nhàn hơn ai


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thướng thuỷ khiển hoài (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Già ngay lúc thái bình
Ốm sau hồi loạn lạc
Lận đận vụng làm ăn
Bảo sao đầu chẳng bạc
Lang thang khắp bốn phương
Nuôi con mong kiếm chác
Nhan nhản lũ trẻ mới
Tuyệt mù bạn thân trước
Nhiều khi phải hạ mình
Người quen may hiểu được
Chia bỉu ta xấu xa
Miệng đời sao quá ác
Bần cùng phụ chí xưa
Điên cuồng chạy lạc chạc
Ở Thục đã mười năm
Sang Sở nay lần bước
Thuyền nhỏ lộn hoa xuân
Sức suy theo liễu rạc
Thánh nhân đã mục xương
Mồ núi trông man mác
Đường, Ngu thấm thoắt qua
Ngày tháng đi như nước
Khuất, Giả chịu thiệt thòi
Hại thay lời bịa tạc
Uất ức nay còn không?
Hai mảnh hồn tan tác
Lởm chởm đá dòng Tương
Giữa rừng theo lối ngược
Lái đò rở tài nghề
Rượu say, vẻ đĩnh đạc
Vang sóng tiếng "hồ khoan"
Lựa thuyền lên khỏi thác
Suy ra trăm việc làm
Phải cậy tay thao lược
Thao lược đã sẵn tài
Việc gì làm cũng khác
Xanh xám sắc rừng chiều
Rắn leo, beo khậm khoạc
Đàn hùm lỗm chỗm ngồi
Ngọn cây gấu đương gác
Đi đâu nắm xương tàn?
Thêm dầy khuôn mặt nạc
Nỗi mình ai thấu cho
Lăn lộn cùng bùn rác


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Phát Lưu Lang phố (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Bến Lưu căng buồm sớm đi khỏi
Gió lật đùng đùng trưa hoá tối
Trong thuyền ngày nào cũng cát bụi
Trên bờ làng vắng đầy hùm sói
Mười ngày nổi gió, gió chưa ngơi
Khách đi năm muộn, muộn đi hoài
Bạc đầu ngủ cạnh phường chài lưới
Dép gai, mũ vải, thôi về thôi


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Yến Vương sứ quân trạch đề kỳ 2 (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Yêu khách không phân tuổi
Đêm lành mở tiệc vui
Thơ ngâm già chẳng nghĩ
Rượu uống mặt cùng tươi
Giặc giã còn đầy đất
Quê hương xa một trời
Mặt hồ, trăng sáng rụng
Say tuýt mặc thây đời


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Khốc Lý thượng thư Chi Phương trùng đề (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nhượng Tống

Nước mắt lau không ráo
Khóc anh đầu bạc phơ
Bạn thân thôi chết hết
Trời đất một mình trơ
Quê cũ cách hồ gió
Minh tinh đẫm nước mưa
Làng văn tài đã hiếm
Ngày lại thấy thêm thưa


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 27 trang (264 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: