NHỚ TRUNG DŨNG THIẾU PHÓ ĐẶNG ĐẠI NHÂN, LÀM THƠ GỬI VỀ TRÌNH LÊN, HAI BÀI.
(- Đây là 2 bài thơ của Đinh Nho Hoàn gửi Đặng Thiếu phó. Qua nội dung hai bài thơ, nhiều nhà ngiên cứu cho rằng, Đặng Thiếu phó là nhạc phụ của Đinh Nho Hoàn. - Trong bài thứ nhất (kỳ nhất) có nhắc đến Băng Hồ, Nhị Khê. Băng Hồ là hiệu của Trần Nguyên Đán, bố vợ của Nguyễn Phi Khanh, người làng Nhị Khê. - Trong bài thứ hai (kỳ nhị) có nhắc đến Dực, Chẩn là hai ngôi sao. Theo định vị của thiên văn cổ, nước ta ở về vị trí hai ngôi sao này).
Bài thứ nhất:
Nghĩa cha con cao vời vợi Thái Sơn, Bắc Đẩu Cho dù không ví được như cụ Băng Hồ, như Nhị Khê tiên sinh Từ khi chia tay ở bến Đông Bộ, mái chèo cô đơn hướng về bắc Đến trạm Lã Côi quay nhìn lại, ráng chiều đã ở phía tây Trên đường đi bao lần chiêm bao thấy Chu Công Ở cõi ngoài buồn nghe tiếng kêu của chim chinh chích Chỉ mong sống trở về để được ngồi hầu bên chiếu tiệc mừng Thanh thản dạo bước trên bờ cát ở ngoài thành
Đẩu Sơn chung một cơ đồ Dẫu không ví đặng Băng Hồ - Nhị Khê Chia tay Đông Bộ buồn se Mái chèo đơn chiếc hướng về Bắc phương Lã Côi nhìn lại vấn vương Trời tây bảng lảng chiều buông ráng hồng Đường đài mơ thấy Chu Công Cõi ngoài chim rúc trong lòng tái tê Mong sao được sống trở về Chiếu nhà hầu rượu, dạo đê ngoài thành
Non cao vời vợi nghĩa cha con Nguyên Đán, Phi Khanh tựa Đẩu Sơn Đông Bộ bồi hồi trời bắc xám Lã Côi vương vấn ráng tây hồng Chu Công ẩn hiện bao cơn mộng Xích yến kêu vang một cõi lòng Đợi lúc quay về cùng dạo bước Ngồi hầu bên chén rượu chờ mong
6. ỨC TRUNG DŨNG THIẾU PHÓ ĐẶNG TÔN ĐÀI, HỒI THI TRÌNH THƯỢNG, NHỊ THỦ.
(Trong bài thứ hai (kỳ nhị) có nhắc đến Dực, Chẩn là hai ngôi sao. Theo định vị của thiên văn cổ, nước ta ở về vị trí hai ngôi sao này).
Kỳ nhị:
Chấn tân bái biệt ký biều tề Dạo ấp từ phong quá Hổ Khê Mã trục oanh hoa thiên lý bắc Tâm hoành Dực Chẩn nhất thiên tê Mỗi sầu thanh bích vô nhân túc Hà sự câu chu hướng khách đề Khước ức giang đê bối khâm nhật Thăng kim vạn liễu thưởng hàng đê
Sau khi chia tay ở bến Đông đã uống cạn mấy bầu rượu đầy Từ xa muốn ôm lấy ngọn gió lành đã thổi qua Hổ Khê Trên đường oanh kêu hoa nở, vó ngựa rong ruổi về bắc Lòng vẫn hướng về phương Dực Chẩn phía trời tây Đang lúc buồn vì chốn non xanh nước biếc không người ở Không hiểu sao lại có tiếng thuyền câu vẳng đến Làm nhớ lại những lúc (tháp tùng đại nhân) đi điều tra đê điều Còn vui hơn cả hôm nay được ngắm cảnh đẹp ngàn liễu trên đê lớn.
Mấy bầu ly biệt bến đông Mơn man gió nhẹ ấp lòng Hồ Khê Oanh ca, hoa nở, xuân về Vó câu rong ruổi mải mê...Bắc thành Quê nhà dực Chẩn đêm thanh Buồn sao nước biếc non xanh không người Thuyền câu đâu vẳng tiếng cười Nhắc ta nhớ lại cái thời tuần đê Tháp tùng vui vẻ hả hê Còn hơn ngắm liễu xanh kề đê nay
Ly biệt bến đông cạn rượu đầy Hổ Khê chạnh nhớ lúc chia tay Chim, hoa, vó ngựa phi về bắc Dực, Chẩn, chân trời ngoảnh hướng tây Nước biếc non xanh nơi vắng vẻ Thuyền câu tiếng vẳng cảnh buồn thay Xưa cùng Thiếu Phó đi tuần thú Hơn cảnh xem đê, liễu lúc này
(Trong bài có nhắc đến Tử Dư, tức Tử Lộ, học trò Khổng Tử, giữa mùa đông giá rét đội gạo về nuôi mẹ).
Ba ba lão nhũ ý môn quyền Tự cách vân quan nguyệt kỳ viên Hà tế khả tiêu sầu dị vực Tương tâm thâu vấn ngã đồng niên Cố viên trăn lật Kê Sơn hạ Du tử thi cầm mã thù tiền Phân bố bất như phì điếu loại Bàng giang không thán Tử Dư hiền
NHỚ BÀ VÚ NUÔI GỬI BẠN ĐỒNG NIÊN LÀ THÁI BỘC TÔN ĐÀI
Nhũ mẫu già tóc bạc khom lưng ngồi tựa cửa Từ ngày xa quê đến nay đã mấy độ trăng tròn Có thuốc gì làm cho ta hết nỗi buồn nơi đất lạ Đem lòng ta trộm hỏi người bạn đồng niên xem sao Ở quê hương dưới chân núi Kê Sơn có cây trăn và cây hạt dẻ Trước đầu ngựa những kẻ nhàn du làm thơ đánh đàn Mớm mồi nuôi mẹ thì không được như loài chim Chỉ đứng bên xe mà thán phục suông Tử Dư là người hiền
Tóc sương tựa cửa mẹ mong con Từ ấy trăng quê mấy độ tròn? Phương thuốc nào xua buồn đất khách Nỗi lòng thử hỏi bạn ngày son Mồng gà làng núi vườn cây trái Lưng ngựa đàn thơ dặm nước non Chẳng được như chim mồi thử mớm Khen suông Tăng Tử vẹn thần hôn