LÝ TRÃI Giới thiệu tác giả Lý Trãi 李廌 (1059-1109); nhà thơ Bắc Tống, tên chữ là Phương Thúc, người Hoa Châu (nay là huyện Hoa Thiểm Tây). Ông mồ côi từ nhỏ, Tô Thức biết ông qua chữ nghĩa; thi tiến sĩ năm đầu Nguyên Hựu không đậu, dâng thư nói về tình hình biên ải. Lúc bấy giờ cho là phải, nhưng chưa được việc gì ông đã mất, là một trong “Tô môn lục tử”. Tác phẩm có “Tế nam tập”. 李廌 飲 襄 陽 沈 氏 家 醉 題 侍 兒 小 瑩 裙 帶 旋 剪 香 羅 列 地 垂 嬌 紅 嫩 綠 寫 珠 璣 花 前 欲 作 重 重 結 系 定 春 光 不 放 歸 Phiên âm: Ẩm Tương Dương Thẩm thị gia túy đề thị nhi Tiểu Oánh quần đái Toàn tiễn hương la liệt địa thùy, Kiều hồng nộn lục tả châu ky. Hoa tiền dục tác trùng trùng kiết, Hệ định xuân quang bất phóng quy. Dịch nghĩa: Uống rượu trong nhà họ Thẩm ở Tương Dương, say đề vào đai quần gái hầu Tiểu Oánh Giải lụa thướt tha rủ trên mặt đất, Đề châu ngọc vào giải lụa hồng, biếc mềm mại. Trước hoa muốn đem giải lụa kết thành lớp lớp, Buộc chặt lấy ánh xuân không thả cho đi. Dịch thơ: Lê Xuân Khải Giải lụa xoay tròn rủ thướt tha, Biếc hồng duyên dáng ngọc châu đề. Trước hoa lớp lớp toan cài thắt, Giữ mãi ngày xuân chẳng thả ra. Chú thích: Hẳn là Tác giả có biệt nhãn đối với Tiểu Oánh, nên mới có việc đề thơ đai quần; sau khi yến tiệc say sưa, muốn giữ mãi mãi ngày đẹp đẽ của đời người con gái Hà Như sưu tầm
Giới thiệu tác giả Lưu Tử Huy 劉子翬 (1101- 1147), tên chữ là Ngạn Xung 彦冲, người Sùng Yên ( nay thuộc tỉnh Phúc Kiến), từng làm thông phán quận Hưng Hoá, sau lui về ở Bình San quê nhà dạy học, mọi người gọi là Bình San tiên sinh: ônglà nhà lý học thời đầu Nam Tống. Thơ ông biểu hiện tư tưởng lo nước, thương thời. Xin giới thiệu một số bài thơ của Ông chưa có trên Thi viện 汴 京 紀 事 其 一 劉子翬 內 苑 珍 林 蔚 絳 霄 圍 城 不 復 禁 芻 蕘 舳 艫 歲 歲 銜 清 汴 才 足 都 人 幾 炬 燒 Phiên âm: BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ I Nội uyển trân lâm uất Giáng Tiêu, Vi thành bất phục cấm sô nhiêu. Trục lô tuế tuế hàm Thanh Biện, Tài túc đô nhân kỷ cự thiêu. Dịch nghĩa: GHI CHÉP Ở BIỆN KINH I Cây quý trong vườn thượng uyển rợp lầu Giáng Tiêu Thành bị vây không cấm chặt củi Nhiều năm thuyền bè chở cây đến Biện Kinh Cũng chỉ đủ cho dân đô thành làm mấy bó củi. Dịch thơ: Thượng uyển Giang Tiêu rợp bóng xanh Củi không cấm chặt, giặc vây thành Thuyền bè chuyên chở về kinh mãi Chỉ đủ dân đô chia mấy cành. Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Giáng Tiêu: lầu trong Thưọng uyển
Ngày gửi: 14/02/2013 15:55 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hà Như vào 14/02/2013 15:57
汴 京 紀 事 其 二 劉子翬 空 嗟 覆 鼎 誤 前 朝 骨 朽 人 間 罵 未 銷 夜 月 池 臺 王 傅 宅 春 風 楊 柳 太 師 橋 Phiên âm: BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ II Không ta phúc đỉnh ngộ tiền triều, Cốt hủ nhân gian mạ vị tiêu. Dạ nguyệt trì đài Vương phó trạch, Xuân phong dương liễu Thái sư kiều. Dịch nghĩa:
GHI CHÉP Ở BIỆN KINH II Chỉ còn biết phàn nàn làm đổ đỉnh, hỏng cơ nghiệp của triều trước Xương dù nát đời vẫn chưa hết lời chửi rủa Đêm trăng hồ, đài nhà Vương phó Gió xuân mành liễu cầu Thái sư. Dịch thơ: Đổ đỉnh than triều nghiệp đã tan Còn lời đời chửi dẫu xương tàn Hồ, đài trăng chiếu nhà Vương phó Cầu liễu Thái sư đón gió xuân Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Phúc đỉnh: làm đổ đỉnh, ví như làm bại hoại quốc gia đại sự. Vương phó trạch: Vương Phủ, Tể tướng đời Tống Huy Tông, rất hung ác, bóc lột tiền dân, bị liệt vào một trong “Lục tặc”, nhà rộng hàng mấy trăm dặm vuông. Thái sư kiều: cây cầu nhà Thái Kinh, Thái sư đời Tống Huy Tông, đứng đầu “Lục tặc”. Nhà hắn có chu vi đến mấy chục dặm, năm đầu Tĩnh Khang đã bị đốt trụi. Đây nhắc đến dấu vết cũ.
汴 京 紀 事 其 三 劉子翬 梁園歌舞足風流 美酒如刀解斷愁 憶得少年多樂事 夜深燈火上樊樓 Phiên âm: BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ III Lưu Tử Huy Lương viên ca vũ túc phong lưu Mỹ tửu như đao giải đoạn sầu Ức đắc thiếu niên đa lạc sự Dạ thâm đăng hỏa thưởng Phàn Lâu
Dịch nghĩa: GHI CHÉP Ở BIỆN KINH III Ca múa ở vườn Lương cũng đủ thú vui Rượu ngon như dao, cắt được nỗi buồn Nhớ lại thời trai trẻ, có nhiều vui thú Đêm khuya đốt đèn đến lầu Phàn
Dịch thơ: Vườn Lương ca múa đủ phong lưu Rượu quý như dao cắt nỗi sầu Vui thú thời trai nay nhớ lại Đốt đèn khuya khoắt đến Phàn Lâu
Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Bài này tuyển từ quyển 18 "Lưu Bình Sơn tiên sinh tập" bản Khắc Thanh Khang Hy. Lương Viên: Nay ở phía đông nam thành phố Khai Phong do Lương Hiếu Vương nhà Hán làm, là thắng địa thăm thú lúc bấy giờ. Đến nhà Tống sớm đã hoang tàn ở đây dùng để chỉ chung mọi nơi vui chơi ở Biện Kinh. Phàn lâu: Lầu rượu nổi tiếng ở Biện Kinh, lại có tên là Phong lạc lâu.
汴 京 紀 事 其 四 劉子翬 輦轂繁華事可傷 師師垂老過湖湘 縷衣檀板無顏色 一曲當時動帝王 Phiên âm: BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ IV Liễn cốc phồn hoa sự khả thương Sư sư thuỳ lão quá Hồ Tương Lũ y đàn bản vô nhan sắc Nhất khúc đương thì động đế vương Dịch nghĩa: GHI CHÉP Ở BIỆN KINH IV Xa giá nhà vua, mọi sự phồn hoa thực đáng thương Khi già Sư Sư qua vùng Hồ Tương Khúc kim lũ, bản gỗ đàn, nhan sắc không còn Thuở đương thì, một khúc làm động lòng đế vương Dịch thơ: Xa giá phồn hoa thực đáng thương Sư Sư có tuổi đến Hồ Tương Bản đàn kim lũ tàn nhan sắc Một khúc đương thì động đế vương Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Liễn cốc: xe ngựa của vua dùng, đây mượn để chỉ kinh thành. Sư Sư: kỹ nữ nổi tiếng ở Biện Kinh, được Tống Huy Tôn cặp kè. Danh sĩ bấy giờ là: Chu Bang Ngạn, Triều Xung Chi; khi làm thơ, từ đều có đề cập đến nàng. Theo Vô Danh thị đời Tống "Lý Sư Sư ngoại truyện": Sau khi quân Kim vào Biện Lương, nàng không chịu khuất thân với người Kim nên nuốt trâm tự sát. Nhưng theo "Tam triều bắc minh hội biên" và "Mặc trang mạn lục" chép: cuối đời, nàng từng lưu lạc đến Hồ Nam và Chiết Giang. Lưu Tử Huy dùng thuyết sau. Thông qua so sánh trước và sau của Lý Sư Sư để phản ánh cảnh thịnh suy của Biện Kinh lúc bấy giờ. Đàn bản: Phách hát làm bằng gỗ đàn. Lũ y: tức kim lũ y, một khúc hát.
Ghi chú: Loạt Bài Biện kinh ký sự 汴 京 紀 事 của Lưu Tử Huy 劉子翬 trên đây nằm trong 20 bài có chung đề mục Biện kinh ký sự, nên sự đánh số Kỳ Nhất, Kỳ nhị .. chỉ mang tính nội bộ trong trang. Nếu có nhu cầu tra cứu, xin mời bạn đọc xem thêm tại Link http://www.sou-yun.com/QueryPoem.aspx
Giới thiệu tác giả Dương Vạn Lý 楊萬里 (1127 - 1206), nhà thơ Nam Tống, tên chữ là Đình Tú hiệu là Thành Trai, người Cát Thủy (nay thuộc Giang Tây). Tiến sĩ năm Thiệu Hưng thứ 24, trải qua chức: Vĩnh Châu Linh Lăng các học sĩ. Ông làm quan ở triều không sợ quyền thế, ngay thẳng dám nói, chăm lo việc nước, chủ trương chống Kim, mọi người đều khen thơ ông, ban đầu học phái Giang Tây, sau học Vương An Thạch và thất tuyệt vãn Đường. Bấy giờ gọi là: “Thể Thành Trai”, nổi tiếng ngang với Vưu Mậu, Phạm Thành Đại, Lục Du, gọi là Nam Tống tứ gia. Tác phẩm có: “Thành Trai Tập”. Dưới đây là một số bài của Dương Vạn Lý 楊萬里 閒居初夏午睡起 梅子留酸軟齒牙 芭蕉分綠與窗紗 日長睡起無情思 閒看兒童捉柳花 Phiên âm: NHÀN CƯ SƠ HẠ NGỌ THỦY KHỞI Dương Vạn Lý
Mai tử lưu toan nhuyễn xỉ nha Ba tiêu phân lục dữ song sa Nhật trường thuỵ khởi vô tình tứ Nhàn khán nhi đồng tróc liễu hoa
Dịch nghĩa: ĐẦU HÈ Ở RẢNH NGỦ TRƯA DẬY Mơ đọng lại vị chua mềm cả răng Lá chuối hắt màu xanh vào rèm sa cửa sổ Ngày dài ngủ dậy chẳng nghĩ ngợi gì Nhàn xem bọn trẻ đuổi bắt hoa liễu bay
Dịch thơ: Mềm răng mơ để vị còn chua Tầu chuối hắt xanh cửa rủ sa Tỉnh giấc ngày dài không nghĩ ngợi Nhàn xem trẻ đuổi liễu bay hoa Lê Xuân Khải dịch Chú thích: (1) Bài này tuyển từ “Thành trai tập” bản tứ khó trị yếu. (2) Nhuyễn xỉ nha: ăn của chua xong, có cảm giác như mềm răng ra. Bài này thể hiện tâm tình nhàn tản thảnh thơi của nhà thơ khi đã về hưu nhàn. Hai câu sau miêu tả lòng mình và nét sinh hoạt ngày ngây thơ của trẻ nhỏ, kính đáo nêu lên tâm hồn theo đuổi cuộc sống tiến lên với sức sống đầy đủ của lớp trẻ.
Ngày gửi: 19/02/2013 09:50 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hà Như vào 19/02/2013 09:53
楊萬里 過松源晨炊漆公店 莫言下嶺便無難 賺得行人錯喜歡 正入萬山圈子里 一山放出一山攔
Phiên âm: QUÁ TÙNG NGUYÊN THẦN XUY TẤT CÔNG ĐIẾM Dương Vạn Lý Mạc ngôn hạ lĩnh cánh vô nan Hiềm đắc hành nhân thác hỷ hoan Chính nhập vạn sơn khuyên tử lý Nhất sơn phóng xuất nhất sơn lan
Dịch nghĩa: QUA TÙNG NGUYÊN NẤU CƠM SÁNG Ở TẤT CÔNG ĐIẾM Đừng cho là đã xuống núi là không còn khó khăn Làm cho người xuống núi mừng hụt Đã vào giữa vòng của muôn núi Một núi thả ra lại có núi khác chắn lại
Dịch thơ: Xuống núi đừng cho hết khó khăn Khách nhầm nên cứ thấy vui tràn Đã vào vòng của muôn trùng núi Một núi thải ra núi khác ngăn Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Bài này tuyên từ “Thành Trai tập” bản tứ bộ bị yếu. Từng Nguyên tên đất, nay ở cách 60 dặm về phía đông huyện Tiêu Lĩnh Quảng Đông. Tác giả làm bài này trên đường đến Kiến Khang Giang Đông là phó sứ chuyển vận, với thâm ý là người ta không được lạc quan tếu trước công việc.
Ngày gửi: 19/02/2013 10:02 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hà Như vào 19/02/2013 10:55
楊萬里 初入淮河 I 船 離 洪 澤 岸 頭 沙 人 到 淮 河 意 不 佳 何 必 桑 乾 方 是 遠 中 流 以 北 即 天 涯 Phiên âm: SƠ NHẬP HOÀI HÀ I Dương Vạn Lý Thuyền ly Hồng trạch ngạn đầu sa, Nhân đáo Hoài Hà ý bất gia (giai). Hà tất Tang Cân phương thị viễn, Trung lưu dĩ bắc túc thiên nha (nhai). Dịch nghĩa: BẮT ĐẦU VÀO SÔNG HOÀI (Bài I) Thuyền rời bờ hồ Hồng Trạch, Vào sông Hoài thấy lòng dạ không vui. Phải đến sông Tang Càn mới là xa đâu, Từ trung lưu trở về bắc đã là chân trời. Dịch thơ: Thuyền rời Hồng Trạch đi chưa mấy Buồn chốn sông Hoài, theo nước chảy Phải đến Tang Càn có phải xa Phía bắc, chân trời đã chợt thấy. Trần Thế Hào dịch Chú thích: (1) Hồ Hồng Trạch: nay ở phía tây tỉnh Giang Tô. Con đường thủy từ sông Hoài đến Hồ Hồng Trạch do Bắc Tống đào là một đường vận tải sông chủ yếu. (2) Tang Càn: tên sông, thượng du của sông Vĩnh Định. Bắt nguồn từ núi Quản Sầm tỉnh Sơn Tây, chảy qua phía bắc tỉnh Hà Bắc. Thời Nam Tống, khu vực Tang Càn rơi vào tay Kim. (3) Trung lưu: chỉ đoạn giữa sông Hoài. Từ năm thứ 11 Thiệu Hưng (1141) Nam Tống ký với Kim một bản hoà ước, một giải thành ở đây (trung lưu sông Hoài) làm giới tuyến của hai bên. Câu này nói: biên giới Nam Tống đâu còn ở Tang Càn xa xôi mà ngay ở sông Hoài đây cũng đã trở thành biên giới phía bắc của Nam Tống
Hà Như sưu tầm
楊萬里 初入淮河 II 兩岸舟船各背馳 波痕交涉亦難為 只余鷗鷺無拘管 北去南來自在飛 Phiên âm: SƠ NHẬP HOÀI HÀ II Dương Vạn Lý Lưỡng ngạn chu thuyền các bội trì Ba ngân giao thiệp diệc nan vi Chỉ dư âu lộ vô câu quản Khứ Bắc Nam lại tự tại phi Dịch nghĩa: BẮT ĐẦU VÀO SÔNG HOÀI (Bài II) Thuyên mỏng đôi bờ đi lại trái chiều nhau Sóng gặp nhau không thành nếp vào vụn ra Chỉ có cò mòng không bị gò bó Mặc lòng bay lên Bắc về Nam Dịch thơ: Thuyền mảng đôi bờ lướt ngược nhau Vụn không thành nếp sóng xô mau Cò mòng không chịu trong gò bó Lên Bắc về Nam chẳng khó đâu Lê Xuân Khải dịch Chú thích:
楊萬里 夏夜追涼 夜熱依然午熱同 開門小立月明中 竹深樹密蟲鳴裏 時在微涼不是風 Phiên âm: HẠ DẠ TRUY LƯƠNG Dương Vạn Lý Dạ nhiệt y nhiên ngọ nhiệt đồng Khai môn tiểu lập nguyệt minh trung Trúc thâm thụ mật trùng minh lý Thời hữu vi lương bất thị phong
Dịch nghĩa: HÓNG MÁT ĐÊM HÈ Nóng ban đêm chẳng kém nóng giữa trưa Mở cửa ra ngoài đứng dưới ánh trăng Nơi bụi tre dày rậm có tiếng sâu kêu Thỉnh thoảng có mát, nhưng không phải gió
Dịch thơ: Đêm nóng mà so chẳng kém trưa Ra ngoài hóng dưới ánh trăng lùa Trúc tre dày rậm sâu ran tiếng Thỉnh thoảng mát người tựa gió đưa Trần Thế Hào dịch Chú thích: