Giới thiệu tác giả Hoàng Thứ và bài Quái thạch Hoàng Thứ (1019 - 1085) tên chữ là Á Phu, người Phân Ninh (nay là Tu Thuỷ, Giang Tây) là thân phụ của nhà thơ Hoàng Đình Kiên; tiến sĩ năm thứ hai Khánh Lịch. Trải qua các chức: Tòng sự Châu quận, Chi châu Khang Châu. Vì bất đắc trí trên đường làm quan nên chăm chút vào văn từ. Thơ ông có nhiều điểm lạ, tác phẩm có “Phạt đàn tập“ 黃庶 怪 石 山 阿 有 人 着 薜 荔 廷 下 縛 虎 眠 莓 苔 手 摩 心 語 知 許 事 曾 見 漢 唐 池 館 來 Phiên âm: Quái thạch (Tống từ ?) San a hữu nhân trước bệ lệ Đình hạ phược hổ miên môi đài. Thủ ma tâm ngữ tri hử sự, Tằng kiến Hán Đường trì quán lai. Dịch nghĩa: Hòn đá có dáng lạ Núi ơi, có người khoác bệ lệ, Dưới sân, con hổ trói ngủ trong bụi mâm sôi. Xoa tay vào biết lòng nó nói gì, Nó từng thấy áo quan từ Hán Đường đến nay. Dịch thơ: Bệ lệ có người khoác núi ơi, Hổ nằm trói giữa bụi mâm xôi. Tay xoa biết được lòng đang nói, Áo quan Hán Đường thấy cả rồi.[/i] Lê Xuân Khải dịch Chú thích Bài này nhà thơ đem hình dáng lạ lùng của hòn đá để mô tả nội tâm đặc biệt lạ lùng của mình. Câu 1: San a, gốc từ Sở Từ Cửu ca九歌, san quỷ山鬼của Khuất Nguyên 屈原: Bị bệ lệ hề đái nữ la 被薜荔兮帶女羅 Khoác bệ lệ hề mang nữ la 薜荔 Bệ lệ: Một thứ cây mọc từng bụi, thường xanh, lá dùng làm phấn thoa. 女羅 cây nữ la Bệ la sau chỉ áo quần người ở ẩn.
Câu 2: Đình hạ: ý là hòn đá có dáng như con hổ, nằm trong bụi mâm xôi, nên gọi là phược hổ (hổ bị trói). Câu 3; Thủ ma: dùng bàn tay xoa vào hòn đá dáng lạ, như nghe thấy điều đá muốn nói.
Giới thiệu tác giả Tăng Củng Tăng Củng 曾 巩(1019-1083) tên chữ Tử Cố 子固, người Nam Phong, Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Thời Tống Nhân Tông, làm quan đến Trung Thư xá nhân. Ông là nhà tản văn nổi tiếng Bắc Tống, thơ cũng rất đặc sắc. Dưới đây là một số bài của Tăng Củng 詠 柳 萬 條 猶 未 變 初 黃 倚 得 東 風 势 更 狂 解 把 飛 花 蒙 日 月 不 知 天 地 有 清 霜 Phiên âm: Vịnh liễu Vạn điều do vị biến sơ hoàng, Ỷ đắc đông phong thế cánh cuồng. Giải bả phi hoa mông nhật nguyệt, Bất tri thiên địa hữu thanh sương. Dịch nghĩa: Cành rối còn chưa vàng tí nào, Nhờ vào thế gió đông càng càn rỡ. Toan đem những bông hoa bay để che mặt trời mặt trăng, Chẳng biết đất trời vẫn còn sương. Dịch thơ: Cành rối còn chưa nhú chút vàng, Gió đông dựa được thế càng hăng. Toan che nhật nguyệt hoa bay loạn, Chẳng biết đất trời vẫn có sương. Lê Xuân Khải dịch Hà Như sưu tầm
Ngày gửi: 17/12/2012 21:30 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hà Như vào 17/12/2012 21:34
曾 巩 城 南 雨 過 橫 塘 水 滿 堤 亂 山 高 下 路 東 西 一 番 桃 李 花 開 盡 惟 有 青 青 草 色 齊 Phiên âm: Tăng Củng THÀNH NAM Vũ quá Hoành Đường thuỷ mãn đê, Loạn san cao hạ lộ đông tê (tây). Nhất phiên đào lý hoa khai tận, Duy hữu thanh thanh thảo sắc tề. Dịch nghĩa: Phía nam thành Sau mưa Hoành Đường, làm ngập đê, Từ các núi cao nước đổ xuống các nẻo đường. Một phen mưa gió hoa đào mận rụng hết, Chỉ có đồng cỏ xanh mọc đều như thảm. Dịch thơ: Hoành Đường mưa tạnh nước đê dâng, Nước tự núi cao đổ xuống đường. Đào mận một phen hoa rụng hết, Chỉ mầu cỏ vẫn mượt xanh bằng. Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Bài thơ tả quang cảnh sau trận mưa xuân, mận đào tươi mơn mởn, qua một trận mưa to, hoa rụng hết, bấy giờ cỏ xanh vẫn bằng như thảm, để người đời phải suy nghĩ. Hoành Đường: tên đất vùng Quế lâm. Hà Như sưu tầm
曾 巩 西樓 海 浪 如 雲 去 復 回 北 風 吹 起 數 聲 雷 朱 樓 四 面 鉤 疏 箔 臥 看 千 山 帶 雨 來 Phiên âm: Tăng Củng TÂY LÂU Hải lãng như vân khứ phục hồi, Bắc phong xuy khởi sổ thanh lôi, Chu lâu tứ diện câu sơ bạc, Ngoạ khán thiên san đái vũ lai. Dịch nghĩa: Lầu tây Sóng biển như mây đi lại về, Gió bấc thổi nghe ran mấy tiếng sấm. Lầu son cuốn cả rèm thưa bốn mặt, Nằm nhìn mưa kéo từ nghìn núi về. Dịch thơ: Sóng biển như mây đến lại đi, Theo chiều nổi bấc sấm ran nghe. Lầu son bốn mặt rèm thưa cuốn, Nằm ngắm nghìn non nước đổ về. Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Hà Như sưu tầm
Giới thiệu tác giả Chu Đôn Di Chu Đôn Di 周 敦 頤 (1017-1078) nhà lý học Bắc Tống, tên chữ là Mậu Thúc 茂叔, người Doanh Đạo, Đạo Châu (nay là huyện Đạo, Hồ Nam). Ban đầu nhờ có cậu được bổ làm chủ bạ Phân Ninh, khoảng năm Hy Ninh làm Tri phñ Sâm Châu, Nam Khang quận. Cuối đời làm nhà ở Lư San lấy tên là Liêm Khê thư đường, đời gọi là Liêm Khê tiên sinh. Về sau Chu Đôn Di chủ trương thuyết văn để tải đạo, làm thơ trên cơ bản tính tình, cần được tự nhiên. Tác phẩm có “Chu Liêm Khê toàn tập“. Xin giới thiệu bài Đề Xuân vãn của Ông 題 春 晚 花 落 柴 門 掩 夕 暉 昏 鴉 數 點 傍 林 飛 吟 餘 小 立 欄 杆 外 遙 見 樵 漁 一 道 歸 Phiên âm: Hoa lạc sài môn yểm tịch huy, Hôn nha sổ điểm bạng lâm phi. Ngâm dư tiểu lập lan can ngoại, Dao kiến tiều ngư nhất lộ quy. Dịch nghĩa: Đề chiều xuân Hoa rơi, cửa phên khép, nắng chiều hắt vào, Mấy chấm quạ bay bên rừng. Ngâm xong dừng lại bên ngoài lan can, Xa thấy mầy chú ngư tiều cùng trên đường về. Dịch thơ: Hoa rụng cửa phên khép ánh tà, Rừng chiều mấy chấm quạ bay qua. Ngâm xong dừng ngắm ngoài hiên trúc Về xóm, ngư tiều thấp thoáng xa. Lê Xuân Khải dịch
Giới thiệu tác giả Lưu Ban Lưu Ban 劉攽 (1022-1088), nhà sử học, nhà thơ Bắc Tống, tên chữ là Cống Phủ 貢父, người Tân Dụ (nay là Tân Dư, Giang Tây) em cuả Lưu Thưởng. Ông đỗ Tiến sĩ năm thứ sáu Khánh Lịch, hai mươi năm quan châu huyện rồi mới làm trực giảng Quốc Tử Giám, sau thăng đến Trung thư xá nhân. Ông là người tinh thông sử học, từng giúp Tư Mã Quang soạn „“Tư Trị thông giám“ chuyên về sử nhà Hán. Tác phẩm có “Công phi tập“, “Bành Thành tập“. Dưới đây là bài Vịnh sử của Lưu Ban 詠 史 自 古 邊 功 緣 底 事 多 因 嬖 幸 欲 封 侯 不 如 直 與 黃 金 印 惜 取 沙 場 萬 髑 髏 Phiên âm: Vịnh sử Tự cổ biên công duyên để sự, Đa nhân bế hạnh dục phong hầu. Bất như trực dữ hoàng kim ấn, Tích thủ sa trường vạn độc lâu. Dịch nghĩa: Từ xưa người muốn lập công ở biên ải, Phần lớn là bề tôi yêu muốn được phong hầu. Chi bằng đem trao thẳng quả ấn vàng, Đỡ phải rơi hàng vạn đầu ngoài trận mạc. Dịch thơ: Từ cổ công biên bởi tại đâu, Tôi yên phần lớn muốn phong hầu. Ấn vàng thà cứ đem trao thẳng, Trận mạc khỏi rơi vạn cái đầu. Lê Xuân Khải dịch Hà Như sưu tầm
Ngày gửi: 27/12/2012 09:17 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hà Như vào 27/12/2012 09:18
ĐẠO TIỀM 道潛 Giới thiệu tác giả Đạo Tiềm (1043-1103), nhà thơ sư đời Tống, tên chữ là Sâm đại sư, người Ư Tiền, Hoàng Châu (Nay là Lâm An, Chiết Giang), là bạn thân của Tô Thức và Tần Quang, xướng họa rất nhiều. Tác phẩm có “Siêu liêu tử thi tập” 道潛 臨平道中 風蒲獵獵弄輕柔 欲立蜻蜓不自由 五月臨平山下路 藕花無數滿汀洲 Phiên âm: Đạo Tiềm LÂM BÌNH ĐẠO TRUNG Phong bồ lạp lạp lộng khinh nhu Dục lập thanh đình bất tự do Ngũ nguyệt Lâm Bình san hạ lộ Ngẫu hoa vô số mãn thinh chu Dịch nghĩa: TRÊN ĐƯỜNG LÂM BÌNH Ngọn cỏ Bồ đung đưa trước làn gió nhẹ Chuồn chuồn không thể đậu tự do Tháng năm con đường ở chân núi Lâm Bình Hoa sen bát ngát rải theo bờ nước Dịch thơ: Ngọn cỏ bồ đung đưa gió nhẹ Cánh chuồn bay không thể hạ nhanh Tháng năm đường núi Lâm Bình Ngập theo làn nước muôn nhành hoa sen Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Bài này tuyển từ “Tống thi sao. Sâm liêu thi sao”, Trung hoa thư cục xuất bản. Bài này được Tô Thức rất ca ngợi, cho khắc vào đá, họa gia Tào phu nhân còn vẽ cho bài thơ này bức tranh “Lâm bình ngẫu hoa đồ”. Lâm Bình: Tên núi, nay ở phía đông bắc thành phố Hoàng Châu, Chiết Giang. Hà Như sưu tầm
TRIỀU BỔ CHI 晁補之 Giới thiệu tác giả Triều Bổ Chi (1053-1110), tên chữ là Nguyên Cữu, người Cự Dã Tế Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông); tiến sĩ thời Nguyên Phong Tống Thần Tông. Quan đến viên ngoại lang bộ Lại. Thơ ông phản ánh sinh hoạt hiện thực. 流民 生 涯 不 復 舊 桑 田 瓦 釜 荊 籃 止 道 邊 日 暮 榆 園 拾 青 莢 可 憐 無 數 沈 郎 錢 Phiên âm: TRIỀU BỔ CHI Lưu dân Sinh nhai bất phục cựu tang điền, Ngõa phẫu Kinh lam chỉ đạo biên. Nhật mộ du viên Thập Thanh giáp, Khả lân vô số Thẩm lang tiền. Dịch nghĩa: Dân lưu tán Cuộc sống không bằng đồng lúa ruộng dâu trước đây, Mang theo nồi đất, làn cỏ nương lại ở bên đường. Chiều đến nhặt những quả vỏ còn xanh ở vườn du, Thương thay quả bé chỉ như đồng tiền của Thẩm lang. Dịch thơ: Sống rời đồng lúa bãi dâu, Chiếu manh nồi đất xúm nhau bên đường. Du xanh lượm nhặt chiều buông, Chỉ bằng tiền nhỏ Thẩm lang Tấn triều. Lê Xuân Khải dịch Chú thích: Quả du: Khi còn non có thể ăn trong khi đói (xem thêm chú thích bài “Vãn xuân” của Hàn Dũ). Thẩm Lang tiền: loại tiền nhỏ do Thẩm Sung người triều Tấn đúc. Ở đây hình dung qủa du rất nhỏ, khi đói mọi người chỉ biết nhặt ăn, làm sao cho khỏi đói. Hà Như sưu tầm
TRIỀU BỔ CHI 晁 補 之 自畫留春堂山水大屏題其上 胸中正可吞雲夢 盞里何妨對圣賢 有意清秋入衡霍 為君無盡寫江天 Phiên âm: TỰ HỌA LƯU XUÂN ĐƯỜNG SAN THỦY ĐẠI BÌNH ĐỀ KỲ THƯỢNG Hung trung chính khả thôn vân mộng Trản lý hà phương đối thánh hiền Hữu ý thanh thu nhập Hành Hoắc Vị quân vô tận tả giang thiên Dịch nghĩa: ĐỀ VÀO BỨC TỰ HỌA “LƯU XUÂN ĐƯỜNG SAN THỦY ĐẠI BÌNH’ Lòng có thể chứa cả mây trời Chuyện cái chén không sao đói với thánh hiền Có ý định thu sang lên tận Hành Hoắc Vì bác vẽ Trời sông mênh mang. Dịch thơ: Lòng mơ chứa cả chín tầng mây Chén rượu, Thánh hiền khó đối thay Ý định sang thu lên Hành Hoắc Sông trời bác giỏi vẽ tô đầy Trần Thế Hào dịch Chú thích: Bài này tuyển từ quyển 22 “Kê lặc tập” bản tứ khố toàn thư Nắm thứ tư Hy Ninh, Thái kinh chuyên quyền xếp 309 người: phải Tư Mã Quang là “Nguyên Hựu gian đảng”. Tác giả cũng không ngoài danh sách đó, từ lang trung bộ Lễ, kiên quốc tử biên tu biến làm tri phủ Hà Trung, chẳng bao lâu lại đổi sang tri Hồ Châu, mật Châu; cuộc đảng tranh thay đổi bất thường, khiến ông chán ngán đối với chính tri, nên dứt khoát từ chức về quê. Nhưng mấy năm sau ông lại bị khởi dụng làm tri Tứ Châu; lúc này tuy ông làm quan nhưng lòng đã hướng về giang hồ. Năm Đại quan thứ tư, ông làm bài thơ này để gủi gắm nọi hàm khoáng đạt. Ngoài nhà thơ, ông còn là một danh họa, bức tranh “Lưu Xuân Đường san thủy đại bình” là một tác phẩm ông lấy làm tâm đắc. Thánh hiền: Người xưa gọi người uống rượu mà tỉnh là thánh, còn say là hiền ý câu này là: vài chén rượu có làm sao đâu với bậc tửu lượng cao. ành Hoắc: Tức Hành San, Hoắc San. ở Hồ Nam, có tài vẽ sơn thủy.
TRIỀU BỔ CHI 晁 補 之 芳儀怨 金陵宮殿春霏微 江南花發鷓鴣飛 風流國主家千口 十五吹簫粉黛稀 滿堂侍酒皆詞客 拭汗爭看平叔白 后庭一曲時事新 揮淚臨江悲去國 令公獻籍朝未央 敕書筑第优降王 魏俘曾不輸織室 供奉一官奔武彊 秦淮潮水鍾山樹 雙燕清秋夢柏梁 吹落天涯猶並羽 相隨未是斷腸悲 黃河應有卻還時 寧知翻手明朝事 咫尺人生不可期 蒼黃三鼓滹沱岸 良人白馬今誰見 國亡家破一身存 薄命如雲信流轉 芳儀加我名字新 教歌遣舞不由人 採珠拾翠衣裳好 深紅退盡惊胡塵 陰山射虎邊風急 嘈雜琵琶酒闌泣 無言遍數天河星 只有南箕近鄉浥 當時千指渡江來 同楛不知身獨哀 中原骨肉又零落 寄詩黃鵠何當回 生男自有四方志 女子那知出門事 君不見: 李君椎髻泣窮年 丈伕飄泊猶堪怜 Phiên âm: PHƯƠNG NGHI OÁN Kim Lăng cung điện xuân phi vi Giang Nam hoa phát giá cô phi Phong lưu quốc chủ gia thiên khẩu Thập ngũ xung tiêu phấn đại hy Mãn đường thị tửu giai từ khách Thức hãn tranh khan Bình Thức bạch Hậu đình nhất khúc thời sự tân Huy lệ lâm giang bi khứ quốc Lệnh công hiến tịch Triều Vị Ương Sắc thư trúc đệ ưu hàng vương Ngụy phù bất tằng du chức thất Cung phụng nhất quan bôn Vũ Cương Tần Hoài triều thủy Chung San thụ Tái Bắc Giang ban dị hoài thổ Song yến thanh thu mộng Bách Lương Xung lạc thiên nhai do tịnh vũ Tương tùy vị thị đoạn trường bi Hoàng Hà ưng hữu khước hoàn thì Ninh tri phiên thư nhất triêu sự Chỉ xích nhân sinh bất khả kỳ Thương hoàng tam cổ Hô Đà ngạn Lương nhân bạch mã kim hùng kiến Quốc vong gia phả nhất thân tồn Bạc mệnh nư vân tín lưu chuyển Phương Nghi gia ngã danh tự tân Giáo ra khiển nũ bất do nhân Thái Châu thập thúy y thường hảo Thâm hồng ám tận kinh Hồ trần Âm San xạ hổ biên phong cấp Tào tạp tỳ bà tửu lan khấp Vô ngôn sở biến Thiên Hà tinh Chử hữu nam cơ cân hương ấp Đương niên thiên chỉ độ giang lai Thiên chỉ bất như thân độc ai Trung Nguyên cốt nhục hựu linh lạc Ký thi hoàng hộc tứ phương chí Nữ tử nạ tri xuất môn sự Quân bất kiến Lý Lăng chùy kế khấp cùng niên Trượng phu phiêu bạc do kham liên Dịch nghĩa: LỜI OÁN CỦA PHƯƠNG NGHI Cung điện Kim Lăng xuân sang mưa phủ kín Đất giang Nam hoa nở chim đa bay Vua ăn chơi nhà nghìn khẩu Kến nữ trẻ mười lăm vào thổi tiêu Hầu tiệc rượu đầy nhà toàn là từ khách cả Gạt mồ hôi, đua xem da của Bình Thúc trắng Một khúc hậu đình hoa bộ mặt đất nước thay đỏi Gạt lệ qua sông, buồn vì mất nước Lẹnh công dâng sổ sách lên triều đình ở cung Vị Ương Sắc thư ban ra xây nhà ưu tiên cho vua hàng Tù bắt được chưa từng sang nhà dệt Một viên quan cung phụng được phái về đất Vũ Cương Nước thủy triều sông Tần Hoài, cây núi Chung San Giang nam lên bái Bắc dễ gây nỗi nhớ quê Thu sang đôi én mơ về đài Bách Lương Gió thổi trôi dạt tận chân trời vẫn còn chắp cánh Còn có nhau chưa phải là nỗi đoạn trường Hoàn Hà rồi cũng có ngày trở lại Có ngờ đâu việc một triều như trở bàn tay Đời người gang tấc không thể lường được Hài hùng trước mấy hồi trống bên bờ sông Hô Đà Ngựa trắng cưa chồng nay không ai trông thấy Nhà tan nước mất một thân còn lại Tin câu nói lưu truyền mệnh lệnh bạc như mây Ta lại thêm cái tên mới là Phương Nghi Dạy ca bắt múa không tự mình Mạc xiêm áo đẹp, đeo châu ngọc Mẫu sặc sỡ trông thấy bụi Hồ mà sợ Gió thổi mạnh bắn hổ Âm San Ồn ã tiếng tỳ bà rượu tan lại khóc Lẳng lặng đến sao Thiên Hà Chỉ có sao cơ ở phía nam là gần quê Năm đó qua sông hàng nghìn người Hàng nghìn người không biết chỉ riêng thêm là buồn thương Ruột thịt ở Trung Nguyên tàn tạ hết Chim hoàng hộc đưa thư bao giờ cho tới nơi Sinh con trai tự có chí bốn phương Con gái biết việc gì ngoài cửa Bác chẳng thấy Lý Lăng búi tóc kiểu Hồ, cuối đời thương khóc Bậc trượng phu phiêu bạt còn đáng thương nữa là. Dịch thơ:Lê Xuân Khải Điện kim Lăng xuân sang mây phủ Giá cô bay hoa nở Giang Nam Nhà nghìn khẩu vua chơi ham Thổi tiêu son phấn mười lăm tuổi vừa Hầu tiệc rượu toàn là từ khách Lau mồ hôi, Bình Thúc tranh xem Khúc hạu đình mất giang san Buồn vì mất nước lệ tràn qua sông Cung Vị Ương lệnh công dân sở Sắc thư xây nhà ở hàng vương Ngụy phù nhà dệt chẳng sang Theo quan cung phụng ra ngoài vũ Cương Cậy chung San, Hoài dâng triều dậy Tái bắc rầy nhớ bấy Giang Nam Đôi én thu mộng Bách Lương Chân trời trôi dạt vẫn lông cánh liền Vẫn bên nhau đoạn trường đâu phải Hoàng Hà rồi trở lại có ngày Việc một triều lật bàn tay Làm sao lường nổi đời người tấc gang Bờ Hô Đà hãi hùng tiếng trống Ngựa trắng chồng chốc chẳng thấy đây Nhà tan nước mất thêm này Lời rằng mệnh bạc như mây vẫn truyền Them Phương Nghi cái tên mới mẻ Dạy múa ca không thể theo mình Áo xiêm châu báu lung linh Sắc màu sặc sỡ thấy kinh Hồ trần Gió thổi mạnh Âm San bắn hổ Tiếng tỳ bà lệ nhỏ tiêu tan Lặng thầm đếm giải sao Ngân Mỗi sao cơ thấy là gần quê hương Hàng nghìn người qua sông năm đó Nghìn chẳng hay riêng khổ một thân Tan đần cốt nhục Trung Nguyên Gửi thơ hoàng hộc cách ngăn dặm trường Sinh con trai bốn phương chí lớn Việc bên ngoài phải phận gái chăng? Tủi hờn bác thấy Lý Băng? Mày râu phiêu bạt đáng thương nữa là? Chú thích: (1) Bài này tuyển từ quyển 10 “Kê lặc tập” bản tứ khố toàn thư. Tác giả làm bài thơ này vì cảm thương trước thân phận người con gái của Lý Cảnh. Sau khi Nam Đường hàng Tống, con gái của Trung chủ Lý Cảnh được gả cho quan cung phụng họ Tôn, sau bị Thánh Tôn Liêu Trung bắt được, phong là Phương Nghi, sinh được một con gái. Triệu Chí Trung từng làm hàn lâm học sĩ ở Liêu, viết quyển “Lỗ đình tạp ký” có chép việc này. Khi tác giả làm giáo thụ Quốc Tử Giám, xem thấy sách này có chép cuộc đời chìm nổi của người con gái họ Lý, đem lòng thương cho số phận của nàng, nên làm bài thơ này. (2) Bình Thức: tên chữ của Hà Án thời Tam Quốc. Án “Dáng vẻ đẹp, mặt rất trắng, Minh Đế ngỡ là Án thoa phấn. Giữa mùa hè, đưa bánh hấp nóng cho Án ăn; an, mồ hôi toát ra, đế dùng ảo đỏ tự lâu, mầu da của Án vẫn trắng như thế theo “Thế thuyết tân ngữ”). Trong thơ tả: “Thức hãn tranh khom Hà Thúc bạch” tác giả dùng hình ảnh này để mô tả cuộc sống dâm dật của vua tôi Lý Cảnh. (3) Hậu đình nhất khúc: tức khúc hát “Ngọc thụ hậu đình hoa” do Trần hậu chủ làm, vì đắm đuối hưởng lạc để đến nỗi mất nước. (4) Câu huy lệ: Con trai Lý Cảnh là hậu chủ Lý Dục bị quân Tống lấy mất nước, bắt làm tù, phải dời Kim Lăng vượt sông lên Bắc, buồn quá có làm mấy câu thơ: “Vân lung viễn tụ sầu thiên ngạn, vũ đả cô chu lệ vạn hàng, huynh đệ tứ nhân tam bách khẩu, bất kham nhàn tọa tế tư lường”. (Hang núi mây lồng buồn lớp lớp Thuyền sông mưa gõ lệ hàng hàng Anh em có bốn, ba trăm khẩu Khổ phải ngồi rưng nghĩ kỹ càng) con gái Lý Cảnh ắt cũng nằm trong số người này: (5) Lệnh công: Trào Bân, đại tướng Tống, Trào vâng mệnh đánh Nam Đường, thắng lợi trở về dâng tù ở cửa Minh Đức. Tịnh: chỉ sổ sách, bản đồ dùng để chỉ cung nhà Tống. (6) Sắc thủ: Lý Dục đã hàng, Tống Thái Tổ sai làm nhà ưu đãi và phong là Vi mệnh hầu (7) Ngụy phù: chỉ con gái Lý Cảnh. Nhà dệt (chức thất), nơi mắn việc dệt lụa trong cung vua nhà Hán. Khi Tấn đã cướp ngôi Ngụy lùa con gái Tôn Thất vào nhà dệt; còn Lý Dục hàng Tống, con gái Tôn Thất được đối xủ rộng rãi, không lùa vào nhà dệt làm việc mà tùy ý chọn để gả cho dân, thế là con gái Lý Cảnh lấy cung phụng họ Tôn (8) Cung Phụng: tên quan chức túc trực bên vua Tống có đông, tây cung phụng là quan võ, nên họ Tôn sau này làm độ giám Vũ Cương. Vũ Cương ở Tây Nam hải Bắc ngày nay, gần biên giới Tống Liêu (9) Bách Lương: đây chỉ Biện Kinh của nhà Tống (10) Hô Đà: tên sông, chiến sự phát sinh ở đây, Tôn cung phụng tử trận, con gái Lý Cảnh lại một lần nữa bị Liêu Bắt. (11) Phương Nghi: Phong hiệu của phi tần (12) Âm san: Núi bên đất Liêu (12) Cơ: tên sao ở phương Nam (13) Cốt nhục: chỉ cung phụng ho Tôn (14) Lý Lăng: trướng nhà Hán hàng Hung Nô, phải búi tóc kiểu người Hồ, sống theo kiếp sống người Hồ, thân thế gần giống như Phương Nghi.