@ hoai son : Cơ chế thị trường giúp ta hội nhập tiến lên;nhưng mặt trái của nó làm phân hoá giầu nghèo,ô nhiễm môi trường...với bao hệ luỵ :
KHÚC CA ĐÔ THỊ HOÁ
*1-Đô thị hoá-chia nhau mà cúp điện
Máy nằm trơ,ngồi quạt rã rời tay
-lạy trời mưa,có nước quay Thuỷ điện
"Sắp hết than"...chất đốt tính sao đây ?
*2-Đô thị hoá- nhà nhà xây cao vút
mặc hạ tầng"cống rãnh" tự mà " tiêu "
Mưa đổ xuống ngõ đường thành sông suối
Ngồi trên lầu ngắm "nước thải" trào reo...
*3-Đô thị hoá- xơi toàn đồ Siêu thị
ướp lạnh ư ?-quá "đát" dễ tiểu đường !
Có Ung thư- tại mình đề kháng kém !
"lên bàn thờ" ngồi ngắm Phố khang trang...
*4- Đô thị hoá-hết ruộng vườn canh tác
"tiền đền bù" chót xả láng ăn chơi
-Rồi Xuất khẩu đi Châu Phi sa mạc
Lại còng lưng trả nợ đứt cả hơi
*5-Đô thị hoá- thật vui Đô thị hoá
Có Tivi xem suốt đêm ngày
Film Trung Quốc,Sex... tha hồ tươi mát
Ca nhạc " bùm "...ngỡ mình ở bên Tây ?
NK mong rằng Sơn La quê tôi tránh được mặt trái của cơ chế thị trường,tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên Xã hội chủ nghĩa đẹp tươi...
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
MIỀN QUÊ TÂY BẮC
Rượu nồng Tây Bắc tôi say thật rồi
Say miền đất lạ sáng ngời
Truyền thống cách mạng bao đời dựng xây
Miền quê Tây Bắc hôm nay
Từng ngày khởi sắc đổi thay đã nhiều
Khi xa tôi nhớ bao điều
Tình quê Tây Bắc, biết bao nhiêu tình
Tình về Thuỷ Điện lung linh
Sơn La thắp sáng mối tình nước non
Còn trời còn nước còn non
Còn Em Gái Thái tôi còn say xưa
Gặp Em gữa nắng buổi trưa
Xa Em vào cuối buổi trưa sang chiều
Trở về tôi nhớ bao nhiêu!
Nhớ đêm Tây Bắc, nhớ chiều Sơn La
Nhớ người nhớ cảnh quê ta
Thiết tha trìu mến đậm đà yêu thương
Cò Nòi, Hát Lót quê hương
Sao Mai điểm hẹn,nhớ thương lại về!
HP;22/6/2010
Đặng Thước
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Đường lên phố núi cao cao
Trời xanh mây trắng anh vào thăm em
Về quê đường đẹp êm êm
Đường cua tay áo,anh nghiêng sang mình
Non xanh núi biếc hữu tình
Càng đi càng thấy quê mình đẹp lên
Xa xa phố núi hiện lên
Mai Sơn tuyệt đẹp trên nền núi cao
Chiều thu tháng tám biết bao nhiêu tình
Đặng Thước
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Sơn là núi, La là suối. Sơn La có nghĩa là vùng đất bắt nguồn từ con suối trên núi. Cùng với thời gian, con suối ấy vẫn đang tuôn trào bao bọc 12 dân tộc anh em, tạo thành sức mạnh, tỏa sáng như viên ngọc giữa đất trời Tây Bắc.
Vùng đất Sơn La có vẻ đẹp hoang sơ thuần khiết của rừng, của núi, của những dòng suối nước trong veo, của những thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, và cả tấm lòng chân chất, hiếu khách của người dân bản xứ. Mùa xuân về, hoa ban nở trắng càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc trong những cuộc hành trình về với Sơn La.
Đến Sơn La để ngắm nhìn những cảnh đẹp hùng vĩ mà nên thơ như Hang Dơi, Thác Dải Yếm, hang Trâu… và để tận hưởng không khí trong lành của vùng khí hậu tiểu ôn đới đang quyện hòa cùng hương chè ngan ngát.
Hang Thẳm Ké (hang Trâu) dài chừng 1km với 2 cửa hang thông ngang 2 sườn núi. Đây từng là kho chứa vũ khí lớn nhất mà chúng ta tìm được ở Tây Bắc sau khi thực dân Pháp thua trận ở Điện Biên. Hang bia Quế Lâm Ngự Chế - nơi ghi dấu bút tích của Vua Lê Thái Tông năm 1440 với bài thơ được khắc trên vòm hang vách đá thẳng đứng. Dưới lòng hang rộng là rất nhiều thạch nhũ từ vòm hang buông xuống.
Thác nước Bản Vặt, một địa danh gắn liền với lịch sử cư trú rừ rất xa xưa của tộc người Thái ở vùng đất Mường Sang xưa, Mộc Châu ngày nay.Có thể nói đây là một cảnh quan sinh thái tuyệt đẹp được thiên nhiên ban tặng cho chủ nhân vùng đất này. Ngoài tên gọi dân dã trên, thác nước này còn có tên gọi khác như thác Nàng, thác Dải Yếm, nhằm ví vẻ đẹp của thác nước như xuân sắc của người con gái tuổi trăng tròn.
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Văn hoá ẩm thực
Ở Sơn La, những món ăn đặc sản từ cây rừng, từ ao vườn, ruộng đồng, được chế biến bởi những bàn tay khéo léo của người con gái bản đảm đang thành những món ăn ngon khó quên.
Cơm lam
Cơm lam vẫn thấy trong các tiệc tùng lễ hội của nhiều dân tộc trên núi rừng Sơn La. Nhưng với người Thái, nó còn có trong từng bữa ăn thường ngày. Cũng là từ hạt nếp nương, nhưng cơm lam là loại cơm đặc biệt ngon vì nó không được nấu theo cách thức thông thường mà được nướng trên rừng rực than củi trong những ống nứa. Gạo nếp ngâm ủ qua đêm được cho vào từng ống nứa non, một loại tre rừng đặc biệt có lớp vỏ lụa mỏng bên trong lòng đốt, thêm nước vừa đủ và nút lại bằng lá chuối khô rồi đưa lên bếp đốt cho đến khi vỏ ống tre cháy sém. Sau đó chẻ tách phần cật nứa chỉ còn lại lớp lụa mỏng bó chặt từng cây cơm trắng nõn nà. Trên lớp vỏ lụa trắng mỏng ấy có thoáng chút mặn, chút hương của rừng và của khói làm cho miếng cơm dẻo thật sự thăng hoa. Ăn cơm lam, ngoài muối vừng, không thể thiếu một loại thức chấm có tên là chẩm chéo. Chẩm Chéo được chế biến từ muối, ớt tươi nướng, hành, rau mùi…, đặc biệt không thể thiếu loại trái rừng có tên là mắc khén, tất cả được đâm nhuyễn. Không có mắc khén không làm ra chẩm chéo, không có chẩm chéo không thành bữa cơm lam. Cơm lam Sơn La thường được bán vào mùa đông. Vì loại ống nứa để nướng cơm lam mùa này mới có. Để thưởng thức được một ống cơm lam.
Hay như món cháo “Mắc nhung” mang hương vị đặc trưng của núi rừng. Sau mùa gặt, quả mắc nhung gieo vãi trên nương bắt đầu chín mọng, bà con hái đem về rửa sạch, thêm gừng xả, trộn với gạo tấm, tưới ít nước đủ chín, túm vào lá chuối buộc chặt vùi trong tro bếp nóng, hoặc đồ xôi như món “Mọ gà” của đồng bào dân tộc Thái, chỉ 30 phút sau sẽ có ngay một món ăn sền sệt, ngăm ngăm đắng, thơm cay là lạ đầy hấp dẫn và chấm với xôi rất hợp khẩu vị, Ngày nay, cháo “Mắc nhung” đã trở thành món ăn đặc sản được mọi người ưa chuộng. Để có món cháo Mắc nhung (tiếng Mường gọi là quả ngố), người chế biến phải biết chọn loại tẻ thơm, nếu được tấm đầu vụ gặt non (như cốm) thì càng tốt. Dùng thịt sương sườn lợn nướng khô hay hun khói, băm nhỏ nấu nhuyễn với cháo tấm. Khi cháo chín tới cho quả Mắc nhung vào, đập thâm củ gừng, ở nướng và xả cả củ bỏ vào đáy nồi cháo, khuấy đều. Vài phút sau, đã có ngay món cháo "Mắc nhung" đặc sản thơm nồng, đặc sánh.
Các món ăn ngày tết của các dân tộc ở Sơn La cũng là một nét văn hoá ẩm thực gây ấn tượng sâu sắc đối với những ai đã từng đặt chân đến đây. Một số dân tộc ở Sơn La từ xưa đã có lệ vào mùa măng (nhất là măng tre, vầu, bương. lay) là làm các loại măng giành cho tết.. Măng chua: Chủ yếu dùng măng vầu, bương thái nhỏ hoặc giã cho vào hũ ủ lên men, càng để lâu càng chua. Măng chua chủ yếu để xào với các loại lòng lợn, gà và xào với thịt mỡ ăn đỡ ngấy. Măng héo: (Nó héo): Bà con Thái Trắng, đồng bào Mông ở Mộc Châu, Bắc Yên thường hay làm loại măng này. Măng héo làm từ măng chua. Măng chua vắt kiệt nước phơi nhiều ngày cho khô quắt lại, đem đồ xôi, rồi lại phơi thật khô, sau đó cho vào ống hay gói lá khô để dùng dần. Nó héo là một đặc sản. Một cân Nó héo tốn hàng hũ măng chua và dùng được nhiều lần. Món lòng xào chỉ cần cho một nắm "Nó héo", sẽ có vị chua ngon và rất thơm. Món canh ULR (còn gọi là lom nhọk): Ngày lễ – tết của người Khơ Mú không thể thiếu được món canh ULR , ULR được chế biến từ các loại thịt chuột, chim, sóc sấy khô băm nhỏ trộn với hoa chuối, các loại rau thơm, ớt chỉ thiên (cá quả), mắc khén, bột gạo nếp cho vào ống tre, bương bánh tẻ, đổ nước vào đem đốt (như đốt cơm lam). Khi sôi lấy que tre vót nhọn sọc liên tục đến lúc nào nhuyễn thì thôi. Khi đổ ra bát nó sền sệt, sánh dùng xôi nếp nắm chấm quệt ăn rất thơm và ngon.
Món mọk: Món mọk này người Thái, Mường, Khơ Mú…đều hay làm nhưng mỗi dân tộc làm một kiểu khác nhau, ngon nhất vẫn là mọk của người Khơ Mú. Mọk được chế biến từ thịt gà (nếu gà to chỉ lấy cổ, cánh, bộ lòng mề là đủ) băm nhỏ, ớt khô, mắc khén giã nhỏ, củ sả thái nhỏ, bột gạo nếp trộn với nhau cho vào lá chuối túm lại bỏ vào chõ xôi sôi lên. Khi chín cũng nhuyễn, sánh sền sệt như món canh ULR.
Bạn hãy thử một lần lên Tây Bắc, đến với Sơn La, vào một đêm lạnh dịu ngồi quanh bếp lửa, nhâm nhi rượu cần nồng nàn, ăn một miếng cơm lam, hay một bát cháo Mắc nhung ngọt ngào... thì mới cảm nhận hết được hương vị núi rừng của nền văn hoá ẩm thực nơi đây.
Nét đặc sắc của những làn điệu dân ca và những điệu múa say đắm lòng người
Nếu như hoa ban - hoa đào - hoa ''bó mạ''... là biểu tượng của các dân tộc ở Sơn La, thì những điệu múa của họ cũng làm nên một vườn hoa muôn sắc và ngát hương, mang bản sắc văn hoá độc đáo, vẻ đẹp tâm hồn trong sáng và thấm đẫm tình người...
Sơn La - thủ phủ trước đây của Khu tự trị Tây Bắc - một miền quê được mệnh danh là xứ sở Hoa Ban nổi tiếng với những làn điệu dân ca say đắm lòng người, và đặc biệt là những điệu múa vừa dịu dàng tha thiết, vừa rộn ràng, sôi nổi…
Điệu múa “nhảy khèn” của các chàng trai H’Mông thật độc đáo và hấp dẫn. Trong tiếng khèn lá dập dìu của các cô gái, các chàng trai cất lên tiếng khèn dập dìu, dồn dập… kèm theo những động tác múa thể hiện tài năng, sự khéo léo và cả sức dẻo dai: vừa thổi khèn liên tục, vừa quay tít nhiều vòng hoặc nhảy nhanh với những động tác chân phức tạp, có lúc lại lăn tròn dưới đất mà điệu khèn vẫn không dứt tiếng… Các nghệ nhân kể rằng: trước đây, trai tráng H’Mông còn thi tài quay trên lá chuối mà lá chuối không rách, quay trên đầu ba chiếc cọc gỗ nhỏ mà không ngã, thậm chí còn ly kỳ hơn: quay trên miếng ván bắc qua chảo nước nóng… Điểm độc đáo có một không hai của “nhảy khèn” là các động tác múa đều mang tính ngẫu hứng rất cao với sự sáng tạo phong phú đến bất ngờ của từng cá thể.
Ngày xưa các cô gái H‘Mông không có múa, nhưng ngày nay, từ giao thoa văn hoá và sức cuốn của phong trào các cô gái cũng múa chẳng kém con trai; phổ biến nhất là điệu múa ô nổi tiếng: những chiếc ô màu sắc rực rỡ cứ xoay tròn, lên cao, xuống thấp, quấn quýt ôm lấy thân hình con gái tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển và sinh động.
Đến với đồng bào Dao để thưởng thức điệu múa Chuông. Những chiếc chuông được lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn, những sợi tua mầu được tung lên, hạ xuống, lượn tròn thật nhịp nhàng, sinh động và đẹp mắt. Xem múa Chuông, ta có cảm giác như những chùm tua mầu tung tăng, nhảy nhót giữa không gian cùng tiếng chuông thôi thúc... như lòng người háo hức, hân hoan. Xem múa Chuông, người am hiểu nghệ thuật cũng phải thán phục vì người Dao Tiền đã tạo nên tiết tấu múa bằng nhịp 5/4 và nhịp 7/4 - đó là loại nhịp ''phức'' của âm nhạc hiện đại. Độc đáo hơn, từng loại nhịp (5/4 hoặc 7/4) lại không kéo dài mà thường đan cài với nhau thành từng cụm: cứ hai nhịp 5/4 lại đến một nhịp 7/4 và thỉnh thoảng lại xen vào một số nhịp 4/4 mở đầu cho các đoạn múa lớn.
Xoè vòng là hình thức múa cộng đồng của dân tộc Thái. Từ xưa đến nay, xòe vòng của dân tộc Thái luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Mỗi khi âm thanh trầm bổng, nhịp điệu của trống xòe nổi lên lại thôi thúc mọi người đến với vòng xòe. Trong tiếng trống, tiếng chiêng, mọi người xích lại gần nhau, quây quần bên nhau, vui tươi, đầm ấm. Một vài chục người thì làm một vòng xòe, dăm bảy trăm người trở lên có thể chia ra nhiều vòng hay xếp vòng trong, vòng ngoài, nhiều nơi còn chia vòng theo lứa tuổi. Tay trong tay, vai kề vai, chân người nọ dịch bước theo chân người kia trong không khí, tình cảm say sưa, đầm ấm của vòng xòe, đêm xòe. Động tác, đội hình xòe đều rất giản dị, các tạo hình và động tác, tính chất nhịp nhàng của độ nhún, bước đi của vòng xoè rất gần gũi với nhiều động tác hoạt động của con người trong lao động và sinh hoạt hàng ngày. Nhịp xòe nhẹ nhàng uyển chuyển, nhưng đôi khi do không khí cuộc vui thôi thúc, mọi người vỗ tay, nhảy lên, hú lên rất náo nhiệt. Cũng có những động tác như người trực tiếp xòe, người đánh trống, đánh chiêng rất uyển chuyển, lúc mạnh, lúc nhẹ và có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
Mang trong lòng ấn tượng về vòng Xoè và âm thanh của trống cồng... chúng ta lại đến với tiếng ''Cống tốp'' - một loại trống độc đáo của đồng bào Kh'Mú.
Khác với chiếc trống lớn được đánh bằng dùi trong những lễ hội lớn: Tiếng ''cống tốp''- (một loại trống nhỡ, vỗ bằng tay vào hai mặt trống) là tiếng trống đầm ấm của trai gái tộc người Kh' Mú. Bất cứ ở đâu, dù trong đêm trăng sáng hay bên ánh lửa hồng, tiếng trống cứ vang lên là con trai, con gái cùng háo hức bước chân, rạo rực nỗi lòng. Bởi trong tiếng trống đặc biệt ấy, họ tìm được bạn tình qua vũ điệu ''nộc Dung'' (chim Công); Một vũ điệu được cấu tạo qua con mắt thẩm mỹ rất độc đáo của người Kh' Mú từ ngàn xưa truyền tại: Trong vũ điệu, người Kh' Mú không miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy bên ngoài của chim Công mà họ tái hiện những cử chỉ của chúng thành những động tác múa sôi nổi, quyến rũ, lôi cuốn và gợi cảm... Để vũ điệu trở thành mê say trong sự giao duyên đầy ý nhị của đầu, của vai, của mông, trong những bước chân nhịp nhàng, lẫn và ánh trăng, hoà vào bóng núi, giữa bản mường quê hương.
Sơn La - phố núi thật giàu bản sắc. Mới chỉ vài nét văn hoá giản đơn trong ăn mặc, ẩm thực, sinh hoạt tinh thần mà đã ấn tượng biết bao, đã tạo thành thế mạnh vật thể và phi vật thể của vùng sơn cước; thành lời mời gọi, thành cớ giữ chân, thành lời nhắn nhủ, ước hẹn gặp lại với những người đã đến và cả những người chưa đến Sơn La.
Sưu tầm ( Góp cùng Hoa Núi nhé)
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook