LÒI TÓI
Hì hì, tôi quay trở lại với từ “lòi tói”, lần này là từ “lòi tói” trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương. Tôi chép lại bài thơ dưới đây:
Dắt díu nhau lên tới cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
Bài thơ này tôi ít tìm thấy trong những quyển sách viết về thơ Hồ Xuân Hương, và trong quyển sách mà tôi tìm thấy bài thơ cũng không thấy ghi tựa của bài tbơ. Chỉ thấy sách viết đại khái là nhân một buổi đi thăm cảnh chùa, Hồ Xuân Hương thấy trên vách tường nhà chùa, ai đó đã viết một bài thơ (ngày đó là thơ chữ Hán, chữ Nôm), ý thơ thì non kém, chữ viết thì nguệch ngoạc. Tức cảnh sinh tình nhà thơ đã làm bài thơ trên để tỏ ý chê bai kẻ đã đề thơ.
Hai câu đầu bài thơ của Hồ Xuân Hương, cho ta thấy là bà đã chê (bài thơ) của kẻ nào đó (viết lên tường của nhà chùa), “cũng đòi học nói, nói không nên”. Câu thứ ba và thứ tư, bà muốn nhắn bảo cho ai đó mà bà gọi là “phường lòi tói”, muốn sống phải đem vôi đến quét xoá đi những câu thơ dở kia, trả lại bức tường cho nhà chùa.
Qua ý nghĩa của bài thơ thì ta thấy rõ Hồ Xuân Hương đã dùng chữ “phường lòi tói”, để chỉ những kẻ dốt chữ đã làm bài thơ dở đề trên vách chùa kia. Trong 2 bài viết “Lòi tói” trước, tôi đã trích dẫn những quyển từ điển tiếng Việt ngày xưa xuất bản ở cả 2 miền Nam, Bắc, kể cả quyển từ điển rất xưa xuất bản năm 1651 tại Roma của giáo sỹ Đắc Lộ, chỉ thấy ghi nghĩa của chữ “lòi tói” là “sợi dây xích sắt”, hoặc là “sợi dây thừng, dây chão lớn để buộc ghe thuyền”, chứ không thấy sách nào giải nghĩa “lòi tói” là “ngu dốt”, hoặc “người ngu dốt mà muốn tỏ ra hay chữ”. Nhưng vài quyển từ điển mới xuất bản gần đây đã đưa thêm nghĩa này vào (chẳng hạn từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, hoặc của Nguyễn Lân), từ điển tiếng Việt Wiktionary trên mạng cũng ghi thêm nghĩa như thế, với ghi chú thêm 2 câu thơ thứ ba và thứ tư của Hồ Xuân Hương.
Tôi đã thử lục tìm trong khá nhiều tự điển, sách vở mình có mà không tìm ra tông tích từ “lòi tói” với nghĩa “ngu dốt”. Mới đây tình cờ lướt web đọc đươc bài thơ trên của Hồ Xuân Hương, với chú thích về chữ “lòi tói” trong “phường lòi tói”, như sau:
- “Do thành ngữ “thảo lòi tói”, nghĩa là viết chữ Hán theo lối thảo nguệch ngoạc, lằng nhằng chẳng ra sao, đây muốn chỉ người học trò dốt nát, học hành kém cỏi, viết chữ xấu, nguệch ngoạc như gà bới”.
Với giải thích về từ “lòi tói” trong bài thơ của Hồ Xuân Hương hiểu theo giải thích như trên, ta thấy “phường lòi tói” mang ý nghĩa là chê chữ viết của ai đó trên vách tường của nhà chùa là nguệch ngoạc, khó coi. Chứng tỏ đấy là kẻ dốt chữ.
Như thế từ “lòi tói” từ nghĩa ban đầu là để chỉ sợi xích sắt, hoặc sợi dây thừng dây chão, đã được người đời “hình tượng hoá” sang chữ viết (chữ Hán hoặc chữ Nôm), với ý nghĩa viết chữ nguệch ngoạc, lằng nhằng (tựa như sợi lòi tói), chứng tỏ là kẻ dốt nát, và nhà tbơ Hồ Xuân Hương trong bài thơ ghi trên đã chê kẻ viết thơ trên vách chùa là “phường lòi tói”, dốt chữ.
Với cách giải thích như trên tôi thấy khá thuyết phục, khi chưa tìm thêm được lời giải thích khác. Như vậy chữ “lòi tói” trong “phường lòi tói” với nghĩa là dốt nát trong bài thơ của Hồ Xuân Hương ghi trên là từ chuyển nghĩa (từ phái sinh), từ chữ “lòi tói” là xích sắt, hoặc sợi dây chão, dây thừng, như đa số từ điển xưa nay đã giải thích.
Tôi thường hay tra các loại từ điển, nhất là từ điển tiếng Việt qua nhiều thời kỳ in ấn, ở các địa phương, tôi nhận thấy cách giải thích từ ngữ của một vài quyển từ điển tiếng Việt thông dụng in thời gian tương đối gần đây, chẳng hạn như từ điển mạng Wiktionary, hoặc từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, Nguyễn Lân, thường đưa nghĩa của các từ qua các thời kỳ, dưới hình thức ý nghĩa khác (nghĩa 1, nghĩa 2...), nhưng không ghi rõ nghĩa nào là nghĩa cũ (đã có từ lâu đời hoặc không còn thông dụng, chẳng hạn như chữ lòi tói với nghĩa là ngu dốt), hoặc là phương ngữ, tiếng địa phương như các quyển từ điển khác. điều này khiến người tra từ điển nhiều khi gặp nhiều khó khăn trong tra từ.
Tôi đưa ra một ví dụ trong quyển Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) là quyển từ điển được dùng nhiều để tra cứu hiện nay, với cách ghi như sau:
- éo le: t. 1. (cũ). Chông chênh, không vững. Cầu tre khấp khểnh, éo le. 2. Có trắc trở, trái với lẽ thường ở đời. Cảnh ngộ éo le. Khối tình éo le.
Với cách ghi như trên, ta có thể thấy từ éo le với nghĩa 1. là chông chênh, không vững, là cách hiểu cũ của ngày trước, ta thấy ngay so với nay là nghĩa2. thì nghĩa 1. ít, hay không còn được dùng nữa.
Tôi đưa thêm một từ khác, đó là từ “bao biện”, đây là từ xưa với nghĩa như từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã giải thích (chỉ với một nghĩa):
- bao biện: đg. Làm cả những việc lẽ ra phải để cho người khác làm, đi đến làm không xuể, không tốt.
Chữ “bao” ở đây có nghĩa là “bao đồng”, và chữ “biện” có nghĩa là “công việc” (từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên), chứ không phải là “biện hộ”. Trong sách Phép giảng tám ngày viết:
Hỏi: Khi giáo hữu thường, như trùm, biện, hay là mụ bà, phải làm phép rửa tội mà hãy còn mắc tội trọng, thì phải lo liệu làm sao?
Trong câu hỏi trên ta thấy có những danh từ chỉ những chức danh trong sinh hoạt của người Thiên chúa giáo ngày trước, như “trùm”, từ còn dùng đến bây giờ, ở mỗi giáo xứ thường có một người đứng tuổi đứng ra cáng đáng “chuyện hằng xứ”, thay mặt giáo dân để làm gạch nối giữa nhà thờ và giáo dân. Phải chăng từ chữ “trùm” này mà xã hội có từ “trùm” để chỉ kẻ đứng đầu, như khi nói “hắn ta là trùm xã hội đen”?
“Biện” trong Phép giảng tám ngày cũng thế, là người tự nguyện đứng ra làm việc cho nhà xứ, cho giáo xứ mà không có công xá gì hết, thường được gọi là người “làm việc tông đồ”, dân gian gọi nôm na là “ăn cơm nhà vác tù và hàng Tổng”. Mấy năm trước tôi gặp lại một anh bạn thời còn trong quân đội trước 1975, sau năm 1975 tôi ở Sài Gòn còn anh bạn ở quê nhà Kontum trong một xã đạo. Khi tôi hỏi thăm về một bạn khác cùng quê, ông bạn tôi nói về người kia “giờ nó làm biện ở nhà thờ”, tức là người bạn kia đang “làm việc tông đồ” cho giáo xứ.
Còn “mụ bà” hay còn được gọi là “cô mụ, bà mụ” là từ ngày xưa để gọi những người nữ đi tu mà sau này gọi là “bà phuớc, dì phước”, hoặc tân tiến theo tiếng Tây là “sơ” (soeur ), mà ta thường gọi là “ma sơ” (ma soeur). Bà mụ này khác với “bà mụ” ở ngoài đời để chỉ người đỡ đẻ ngày xưa, hoặc “mụ, mụ bà” trong tâm linh. Đứa trẻ lững chững biết đi bị ngã, người lớn hay nói “mụ bà đỡ”.
Ít năm trở lại đây tôi thấy trong xã hội người ta ít còn dùng từ “bao biện” với nghĩa như Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê đã giải thích, mà dùng với nghĩa là tìm đủ mọi lý lẽ để chống chế cho lỗi lầm đã phạm khi bị phát hiện. Từ “bao biện” với nghĩa này rõ ràng đã khác với nghĩa cũ của nó. Tôi nghĩ sau này đã dùng sai, có lẽ người ta đã hiểu từ “biện” với nghĩa thông dụng là “biện hộ, biện bạch” chứ không phải nghĩa là “công việc”, rồi dùng sai miết thành quen, thành ra một từ với nghĩa mới.
Có một điều khá lý thú, là quyển Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, một quyển từ điển sau này nhiều người phát hiện nhiều sai sót trong việc giải thích từ ngữ, cũng chỉ ghi nhận nghĩa của từ “bao biện” là ôm đồm cả công việc của người khác.
Tôi tra từ điển tiếng Việt trên mạng, và Từ điển tiếng Việt thông dụng của Nguyễn Như Ý (NXB Giáo Dục-1996), thấy ghi từ “bao biện” gồm 2 nghĩa như sau:
Bao biện: đgt. 1. Làm thay sang cả việc vốn thuộc phận sự người khác. 2.Chống chế lại với đủ lý lẽ, nguyên cớ, làm cho người khác khó bác bỏ hoặc kết tội.
Tuỳ thời điểm mà đưa thêm nghĩa mới của từ ngữ vào từ điển là cần thiết, nhưng hai nghĩa ghi trên không ghi nghĩa nào là nghĩa cũ. Tôi nghĩ cách viết từ điển (sơ sài) không rõ ràng như thế có một nhược điểm như đã nêu, là khiến người tra từ điển không phân biệt được đâu là nghĩa cũ, đâu là nghĩa mới phái sinh. Đó chính là lý do mà nhiều khi tra nghĩa của một từ, tôi đã phải giở khá nhiều quyển từ điển.
Vài điều suy nghĩ về một từ ngữ.
Phạm Ngọc Hiệp