KHÔNG NÊN HỒ ĐỒ VỚI
“THẤU CẢM”-[1]
Tuần qua, báo chí và mạng xã hội bình luận sôi nổi về đề thi ngữ văn THPT năm 2017, với đoạn văn đọc hiểu, trích dẫn từ sách “Thiện, Ác và Smartphone” của tác giả Đặng Hoàng Giang (NXB Hội nhà văn, 2017). Xin trích:
“Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ.
Giống như cái lạnh thấu vào tuỷ hay cái đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự phán xét.
Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một khả năng phát triển ở những người mẫn cảm”.
Rất nhiều ý kiến tranh luận trái chiều, nhưng có thể tổng hợp thành mấy quan điểm chủ yếu như sau:
-Thứ nhất: “Thấu cảm” là một “từ lạ”, không có trong tiếng Việt, cũng không có trong tiếng Hán, và không được bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào ghi nhận. (“Một thạc sỹ công tác tại Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam thú nhận: “Chưa từng nghe từ này bao giờ”- báo “Tiền phong”). Vì tiếng Việt không có cái gọi là “thấu cảm”, nên cách hiểu, cách giảng về “thấu cảm” của TS Đặng Hoàng Giang là vô nghĩa.
-Thứ hai: Từ “thấu cảm” tuy không thông dụng, nhưng đã được dùng trong thực tế và được từ điển tiếng Việt ghi nhận. Tuy nhiên, cách giải thích của tác giả Đặng Hoàng Giang mang nặng tính suy diễn, chủ quan, phi lý.
- Thứ ba: Không có vấn đề gì đáng phải bàn cãi trong đoạn văn đọc hiểu và đề thi môn ngữ văn.
Trước tiên, xin nói về từ “thấu cảm”.
Có thể nói, “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học Vietlex (Vietlex) là cuốn từ điển duy nhất (đến thời điểm này mà chúng tôi biết) có ghi nhận từ “thấu cảm”. Sách này đưa ra hai cách giải thích như sau: “thấu cảm • 透感 đg. thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc” (theo bản có chú chữ Hán cho những từ Hán Việt, NXB Đà Nẵng, 2015); “thấu cảm • đg. cảm nhận và thấu hiểu một cách sâu sắc : thấu cảm lòng nhau” (bản không chú chữ Hán, NXB Đà Nẵng, 2007).
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc Vietlex thu thập và chú chữ Hán cho từ “thấu cảm” là thiếu thận trọng, thậm chí không đúng, vì đây không phải là từ có trong tiếng Hán. Mặt khác, cách giải nghĩa của Vietlex theo kiểu lắp ghép máy móc, tuỳ tiện của “từ điển Vũ Chất” (kiểu như “giao hợp” = giao lưu và hợp tác!). Nghĩa là theo quan điểm này, thì ngay cả khi “thấu cảm” đã được từ điển tiếng Việt ghi nhận, cũng không có nghĩa là đúng.
Vậy, nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
Theo chúng tôi, cần thấy rằng, từ Việt gốc Hán không dứt khoát phải là một từ có trong tiếng Hán, được dùng với nghĩa của tiếng Hán. Từ gốc Hán còn là những từ “có sự vay mượn hoàn toàn hay một phần ý nghĩa từ tiếng Hán. Khi vay mượn và biến đổi theo những nghĩa không có trong tiếng Hán thì ngữ tố đó được gọi là Hán Việt Việt dụng” (ví dụ các từ: lịch sự, tử tế, thông cảm-HTC chú); “Những từ được người Việt tạo thành từ việc kết hợp các từ tố gốc Hán (với ba mặt hình-âm-nghĩa) theo kiểu của người Việt và chỉ có người Việt sử dụng. Những đơn vị này không xuất hiện trong từ vựng của tiếng Hán, tiếng Hàn, tiếng Nhật cũng như khối từ vựng văn ngôn của các nước này thì được gọi là từ Hán Việt Việt tạo.” (“Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển”-Trần Trọng Dương, NXB Từ điển bách khoa-2014).
Như vậy, căn cứ tiêu chí mà các nhà ngôn ngữ nói chung, tác giả Trần Trọng Dương nói riêng đưa ra để phân loại, thì “thấu cảm” thuộc nhóm từ “Hán Việt Việt tạo”. Quá trình sản sinh từ “Hán Việt Việt tạo” diễn ra cách nay ít nhất cũng đã hơn nửa thiên niên kỷ. Cụ thể, theo tác giả “Nguyễn Trãi quốc âm từ điển”, thì (cho đến thời điểm này) từ “Hán Việt Việt tạo” xuất hiện trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi được coi là sớm nhất.
Về từ “thấu cảm”, Nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Ts Hán Nôm Trần Trọng Dương cũng chia sẻ ý kiến với chúng tôi như sau: “Xét về mặt lý thuyết, “thấu cảm” không có gì sai về từ pháp (cấu trúc từ) của Hán văn, và không có gì sai về cơ chế sản sinh từ vựng của tiếng Việt. Nguyên lý này dựa trên cảm thức ngôn ngữ, và tri thức Hán văn của người bản ngữ, để có thể tiếp tục làm giàu thêm kho từ vựng phong phú của tiếng Việt. Ví dụ: về cấu trúc tương đương, thấu hiểu >>> thấu cảm >>> thấu thị >>> thấu đáo. Giống như, lâm tặc> hải tặc> tin tặc> cát tặc”.
Quả vậy, về từ “thấu hiểu”, “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) giảng như sau: “thấu hiểu • 透曉 đg. hiểu một cách sâu sắc, tường tận: thấu hiểu lòng nhau”; “Hán ngữ đại từ điển” giảng: “thấu hiểu: hiểu một cách triệt để, tường tận” (nguyên văn: “triệt để hiểu ngộ 徹 底 曉 悟”). Theo đó, với từ “thấu cảm”, thì “thấu” ở đây là “thông thấu” 通透 (Hán điển giảng: “thông thấu = thấu hết; hiểu rõ” [nguyên văn “通透 (penetrating): 通徹, 明白”]; “cảm” 感 nghĩa là sự rung động, nhận biết bằng giác quan, hoặc bằng cảm tính về sự vật, hiện tượng nào đó. Bởi vậy, “thấu cảm” có thể được hiểu là sự cảm nhận, hiểu biết một cách sâu sắc, tường tận về trạng thái tâm lý, hoặc cảnh ngộ… của ai đó. Tuy nhiên, “cảm” trong “thấu cảm” là cảm nhận mang tính chất cảm thông, chia sẻ, chứ không phải là cảm nhận nói chung. Theo đó, phương pháp định nghĩa phổ biến trong từ điển giải thích là dùng “từ bao”. Nghĩa là phải thể hiện được mối quan hệ trực tiếp của nội dung định nghĩa với yếu tố thể hiện ở đầu mục từ. Bởi vậy, từ cách tạo từ đến lời giảng của Vietlex: “thấu cảm: cảm nhận và thấu hiểu một cách sâu sắc”; hoặc “thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc”, hoàn toàn không có gì là bất thường, ngô nghê. Ví dụ thêm, từ “cân xứng” 斤稱 (Hán ngữ = tương xứng相稱) là một từ “Hán Việt Việt tạo” (đã có trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi). Từ điển của Vietlex giảng: “cân xứng • 斤稱 cân đối và phù hợp với nhau. Đn: tương xứng”. Tuy nhiên, “cân xứng” cũng có thể được giảng là “cân đối và tương xứng”, mà không bị xem là cách ghép từ và giải thích theo kiểu máy móc của “từ điển Vũ Chất”. Hoặc “cách điệu” 格調, được “Hán Việt từ điển” của Đạo Duy Anh giảng là: “cách-thức và thanh-điệu của văn-chương”…
Theo ngữ liệu của Vietlex, thì “thấu cảm” đã xuất hiện trong văn học xuất bản từ năm 1941. Đó là truyện ngắn “Những nỗi lòng” (nằm trong tập truyện ngắn “Nằm vạ” của Bùi Hiển):
“Anh viên chức đạc điền trước nhà, bác thợ may hàng xóm, chị bán cháo bánh canh thường ngày cung cấp cho tôi món quà sáng thơm ngon ngầy ngậy, họ sống ra sao, lo nghĩ những gì, họ yêu ai và ghét những ai? Tại sao cô em gái tôi thương yêu nhất đời lặng lẽ khóc hai lần giữa ngày mồng một Tết? Tôi không hề biết, không hề biết!
Tâm hồn tôi trở nên lo lắng. Tôi sống chăm chú, vểnh tai và giương mắt như con nai rừng rậm, tôi muốn cho linh giác thẳng căng, để mà THẤU CẢM, một cách lẹ làng tế nhị, sự thầm kín ủ trong những nỗi lòng”.
Ngoài ra, cũng theo ngữ liệu (do Trung tâm từ điển học Vietlex cung cấp cho chúng tôi), “thấu cảm” còn xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm khác, như:
-“Tối đen, yên ắng. Bóng tối trở nên lạnh. Đã đến lúc phải về rồi, Kiên thầm nghĩ và phóng tay ngồi dậy. Chẳng hiểu sao cậu cảm thấy một nỗi tiếc nuối cay đắng, cảm thấy cái việc phải rời đây ra về là nặng nề quá sức mình. Như THẤU CẢM được lòng Kiên, Phương khẽ nói:
- Chẳng sợ đâu. Đằng nào cổng trường cũng đóng rồi. Đợi tối khuya cụ lao công gà gật, ta trèo tường biến”. [Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh”. 1990].
-“Thuật lắng nghe một vấn đề, không phải chỉ bằng tai mà còn cả bằng mắt, để ý những cử chỉ nhỏ của người nói, để dễ tạo cho mình một THẤU CẢM về sự kiện, tâm trạng và âm vang trong cơ thể người kể”. [Thế Bảo Tịnh. Hà Nội mới cuối tuần. 1996]
-“Không nhận thức rõ ràng nguồn gốc tư tưởng nhân đạo đậm đà bản sắc dân tộc này thì sẽ dẫn tới sự đối lập cực đoan giữa cá nhân và xã hội, giữa cái tôi và cái ta, giữa chủ thể đạo đức và chủ thể trí tuệ, không dễ gì THẤU CẢM được “sự thật bên trong” của những câu thơ “Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng.” [Nguyễn Thanh Hùng. Văn nghệ. 1996]
-“Cha mẹ lại cũng cần THẤU CẢM với trẻ, nhớ lại cái thuở tuổi mới lớn của mình để hiểu những phản ứng của trẻ bây giờ, nhưng vẫn phải có trách nhiệm giám sát, cố vấn”. [Đỗ Hồng Ngọc. Kiến thức ngày nay. 1997]
-“Thiên nhiên thật thiên vị, dường như đã dồn hết cả tinh tuý của đất trời về phía Tây Hồ. Đã có biết bao mùa thu đến rồi đi qua, vậy mà cứ mỗi một mùa thu về lại dậy trong tôi những cảm giác mới lạ, THẤU CẢM bằng cả tâm hồn”. [Báo Doanh nghiệp chủ nhật. 1997]
-“Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về giao tiếp quản lý. Đó là sự giao tiếp luôn hướng vào quần chúng, đồng cảm ở mức độ THẤU CẢM với họ, để ứng xử phù hợp - sáng tạo và cách mạng, như đồng chí Phạm Văn Đồng nhận xét: “Hồ Chí Minh rất giản dị trong lời nói và bài viết vì muốn cho quần chúng hiểu được, nhớ được, làm được”. [Nguyễn Liên Châu. Giáo dục & Thời đại chủ nhật. 1999].