14. NHÀ THƠ BÙI HUY PHỒN - ĐỒ PHỒN* Tên khai sinh: Bùi Huy Phồn (1911 – 1990. Sinh ngày 16.12.1911, tại Phố Đầm, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc:Làng Liên Bạt, xã Mai Đình, huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Mất tại Hà Nội năm 1990. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
* Ông thân sinh Bùi Huy Phồn là một nhà Nho, chi trưởng họ "Đại Bùi", thi cử không đỗ, bỏ làng phiêu bạt lên phố Đầm bán chữ nuôi thân. Rồi kết duyên với cô gái Bắc Ninh đảm đang, giỏi nghề buôn bán, sau này là mẹ thân sinh nhà văn. Trước năm 1940 gia đình ông là tư sản thương mại (dân tộc) kiêm địa chủ. Đến những năm 1940-1945, gia đình bị phá sản, bán hết ruộng đất ở phố Đầm trở về quê gốc.
*Các bút danh khác: Đồ Phồn, Bùi Như Lạc, Cười Suông, Việt Lệ, ấm Hai, Lý Ba Lẽ, BHP.
Nhà văn học chữ Hán hết chương trình tú tài, thạo tiếng Pháp.
Bùi Huy Phồn dạy học, nhưng gắn bó với việc viết văn, làm thơ, viết báo. Nhà văn đã từng là ủy viên Ban vận động nghiệp đoàn những người viết báo (Bắc Kỳ) ở Hà Nội, ủy viên chấp hành đoàn Văn hóa kháng chiến Bắc Bộ, chủ bút tuần báo Đây Việt Bắc (khu X), biên tập viên báo Cứu quốc khu X. Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962), ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II (1962-1972), Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa IV, V, VI. ủy viên thường trực Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội. Sau đó, ông nghỉ hưu, mất ngày 31.10.1990 tại Hà Nội.
* Tác phẩm đã xuất bản:
Lá huyết thư (tiểu thuyết dã sử, 1932)
Một chuỗi cười (tiểu thuyết trào phúng, 1941)
Sự tích Trần Hưng Đạo diễn ca (truyện thơ, 1941)
Gan dạ đàn bà (tiểu thuyết trinh thám, 1942)
Mối thù truyền kiếp (tiểu thuyết trinh thám, 1942)
Tờ di chúc (tiểu thuyết trinh thám, 1943)
Thôn nữ ca (tập ca dao mới, 1944)
Khao (tiểu thuyết trào phúng, 1946)
Người chiến sĩ chồng tôi (tiểu thuyết, 1949)
Tình quân ngũ (truyện vừa, 1949)
Tay người đàn bà (kịch hai hồi, 1950)
Bia miệng
Mưu sâu Mỹ Diệm
Thơ ngang
Tàn xuân đế quốc (tậpthơ trào phúng 1952, 1957, 1959)
Vô lý không có lẽ (kịch ngắn, 1960)
Phất (tiểu thuyết, 1961)
Trái cam (truyện ngắn và ký, 1972)
Bình minh hôm nay (tiểu thuyết, 1990)
Không đềBao nhiêu năm nợ bao nhiêu phiền
Mẹ trả con rồi, đến cõi tiên.
Ăn nói đãi đời con mới thuộc,
Gối lưng mưu sống mẹ quên rèn.
Sinh con những tưởng con đền đáp,
Có cháu nào hay cháu báo thêm
Chúng nó quan hàn quan nghị cả
Một con cậu khoá, cậu hai quèn
Nhà mong gì được nghề nôm tạm
Nước dụng bao giờ đứa xỏ xiên
Thôi thế cũng là an mả mẹ
Để cho thiên hạ khỏi đào lên.
NXB Hội nhà văn, 1998
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he