Trang trong tổng số 17 trang (167 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

97
THỬ TÌM HIỂU THẾ NÀO LÀ 1 BÀI THƠ HAY-[3]


Thí dụ khác: Bốn câu Thơ dịch của người viết bài này:

Xuân sang ngoạn cảnh xem hoa
Hè về hóng mát tà tà ao sen
Vào Thu rượu cúc êm êm
Ðông coi tuyết phủ, nối vần Nàng Thơ
(TÐN)

Tất cả đều hiệp vận, ngoại trừ “êm” và “vần” , nhưng đúng ý nghĩa. Giả sử thay hai chữ “nối vần” bằng hai chữ “êm đềm” cho vần với câu trên thì trước nhất bị điệp ngữ êm, thứ hai “êm đềm Nàng Thơ” lại có nghĩa khác, không nói được cái thú ngâm Thơ, sáng tác Thơ của tác giả. (Ðông ngâm bạch tuyết thi). Bài thơ trên dịch từ bài thơ chữ Hán:

Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Ðông ngâm bạch tuyết thi

Ý nghĩa của một câu Thơ, một bài Thơ là quan trọng như vậy.

Một bài Thơ hay, một câu Thơ hay rất dễ nhìn ra y như một bông hoa đẹp. Ðâu cần phải phân tích cánh hoa làm sao, đài hoa, sắc hoa thế nào, ta mới biết là bông hoa đẹp.

Tiền nhân xưa sáng tác Thơ, vào hội Thơ, ngâm Thơ như một cái thú của đời người, nhất là khi về già. Không gì bằng có bạn Thơ, có giấy bút, có rượu, dù chỉ thanh đạm, cùng làm Thơ, cùng bàn luận về văn chương, về những hào khí của người xưa. Tổ tiên ta dùng Thơ để nói về mình, về người, dạy đời, mỉa mai những thói rởm của đời, tôn vinh những thú vui thanh quí, cao nhã “an bần lạc đạo” mà Thơ chính là một dụng cụ sắc bén và đắc dụng nhất cho các mục tiêu đó. Ta thử đọc lại một bài thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

THƠ NHÀN
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!

Bài sau đây của thi hào Tản Ðà Nguyễn khắc Hiếu, làm cho vở chèo Thiên thai. Ðây là cảnh hai tiên nữ tiễn Lưu Thần, Nguyễn Triệu về trần:

TỐNG BIỆT
Lá đào rơi rằc lối Thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Ðá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động,
Ðầu non,
Ðường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!

Dù là một huyền thoại, người đọc Thơ không khỏi bùi ngùi cho cuộc chia tay giữa người tiên, kẻ tục sau một thời gian ngắn chung sống. Chữ dùng rất thanh thoát thích hợp với cảnh tiên: lá đào, Thiên thai, đá mòn, rêu nhạt... cái hạc, cửa động, đầu non ... và kết thúc bằng ánh trăng mơ hồ huyền ảo muôn đời soi bóng. Một bài Thơ tuyệt đẹp. Từ đó chúng ta suy ra Thơ là thơ thẩn, là mơ hồ, đôi khi xa rời thực tế. Như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:

Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây...

Thơ là kết tụ của tình yêu, tình yêu nam nữ, vợ chồng, tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người. Thơ là tự do, phóng khoáng, là sắc sắc không không của nhà Phật, là Vô vi, Thiền quán như Lão tử thực hành và đôi khi cũng cần phải yếm thế, chán cái đời sống đầy tục luỵ này như Cao bá Quát, hay châm biếm những thói rởm, tật xấu của người đời như Trần tế Xương... Thơ thực quá, thô sơ quá, thơ không hay, không thoát. Nhiều bài không thể gọi được là Thơ mà chỉ là những bài vè dân quê truyền tụng ở nông thôn. Thơ lục bát tuy vậy rất khó làm, dễ trở thành bài vè ít giá trị. Làm được Thơ lục bát như truyện Kiều là một tuyệt tác.

Có nhiều bạn đọc viết thư cho người viết hỏi họ có thể sáng tác Thơ, có thể thành nhà thơ được không? Tiện đây, xin trả lời chung như thế này:

Ai cũng có thể sáng tác và trở thành thi sĩ, nếu:

Yêu thơ, đọc nhiều thơ, học thuộc thơ kiểu mẫu, thơ hay, chất Thơ ngấm vào trí óc giống như chất bổ ngấm vào thân thể, chúng giúp cho nhà thơ rất nhiều. Tuy vậy xưa kia đã có những người thuộc lòng cả cuốn truyện Kiều, cả cuốn Nhị độ Mai hay Bích câu kỳ ngộ nhưng vẫn không thể sáng tác Thơ.

Có thiên khiếu về Thơ. Có sự rung cảm, xúc động sâu xa như sợi dây đàn hoặc cái sáo trong không gian như đã nói ở trên.

Có vốn liếng nhiều về từ ngữ để sử dụng khi cần diễn dịch một ý tưởng thành lời nói, chữ viết, nhất là thành Thơ. Thơ tiếng Việt rất cần danh từ Hán - Việt.

Nắm vững các niêm, luật (bằng, trắc, vần) và các thể Thơ. Dùng chúng như những cái chìa khoá dẫn đường vào việc sáng tác Thơ.

Tuân theo các niêm, luật đó ngoại trừ Thơ tự do. Tuy nhiên, dù là Thơ tự do, nó vẫn không phải văn xuôi, vẫn cần một sự sắp xếp ý, lời và vẫn cần vần khi có thể cho câu thơ nhịp nhàng, cân đối.

Ðể bạn đọc hiểu thêm, xin nói như thế này. Có những nhà văn viết văn khá hay, nổi tiếng nhưng chính những nhà văn đó nói họ không thể sáng tác Thơ mặc dù chữ nghĩa đầy đầu.

Ngược lại, có những thi sĩ không thể viết truyện, viết bình luận, nghĩa là văn xuôi.

Bởi như đã nói, tuy cùng là văn chương nhưng chúng hoàn toàn khác biệt về phương diện sáng tác. Lại cũng khác biệt về phương diện thưởng thức. Cũng cần nói thêm, khi đã không có trình độ thưởng thức thì bài nào cũng như bài nào, vàng thau lẫn lộn, bị đánh giá như nhau. Trình độ thưởng thức chính là những kiến thức thu thập được trong lãnh vực Thơ, nó chính là những bước căn bản đầu tiên đưa đến sự sáng tác Thơ nếu có hứng sáng tác.

Luận bàn về Thơ, chục pho sách cũng không đủ nói hết. Ðể kết thúc bài mạn đàm thiếu sót về Thơ này, xin mời quí bạn đọc một bài Thơ lục bát của tác giả bài này, bài “Chiều Ba Mươi”, thơ vui Tết và bài “Nói với Bút” cả hai đã đăng trên nhiều báo từ năm 1978 và 1992. Bài sau tác giả mượn cây bút để nói lên nỗi lòng của mình.

CHIỀU BA MƯƠI
Vòng tay nhật nguyệt luân hồi
Đem Xuân trở lại nét môi diễm kiều
Lược gương từ giã cô liêu
Nâng niu mái tóc đây chiều ba mươi

Trẻ thơ tươi tắn nụ cười
Ðầu xanh, đầu bạc người người vui lây
Gió ngoài song, lạnh hiên tây
Chiều Xuân thi hứng lúc đầy, lúc vơi

Trong bình đào thắm, mai tươi
Nhìn em muốn hỏi Xuân cười lúc nao?
Giang tay bồng nhẹ Xuân vào
Môi son má phấn: Mai, Ðào hay em?


NÓI VỚI BÚT
Bút ơi ! Yêu bút thiết tha
Bút theo ta chạy ta bà khắp nơi
Mùa Xuân rừng núi rong chơi
Miền quê, thành thị khắp nơi ra vào

Hạ về bút lắm xôn xao
Biển giông bão nổi ào ào chớm Thu
Mùa Ðông bút có sương mù
Có đôi chim gáy gật gù sớm mai

Ðường đời lắm nẻo chông gai
Bút cùng ta luận một vài điều hay
Cường quyền bút chẳng run tay
Bút mong Dân tộc những ngày sáng tươi

Chán đời vẫn hé môi cười
Ta cùng với bút một đời bên nhau
Vì ta bút trải tình sâu
Vì ta nên bút giãi dầu nắng mưa

Lòng ta bút hiểu hay chưa ?

Thơ là tuyệt đỉnh, tuyệt đích của văn chương. Sáng tác Thơ khó khăn hơn chơi Lan, chơi Bonsai, đánh cờ tướng, uống trà v.v... vì nghề Thơ cũng lắm công phu, không phải chỉ thích Thơ rồi nhảy vào làm Thơ mà Thơ hay được. Tuy nhiên, nếu đã có hồn Thơ tức dễ xúc động trước những biến đổi, nghịch cảnh của cuộc đời, rồi trau dồi kĩ năng về Thơ, làm nhiều bài Thơ, nghe ý kiến trung thực của bạn đọc và thân hữu, nhất là những người sành Thơ thì việc sáng tác Thơ cũng tiến bộ vậy.

Xuân Vũ Trần Ðình Ngọc
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

98
MỘT NGHỊCH LÝ THƠ

VŨ QUẦN PHƯƠNG
Từ khi thực thi quốc sách Đổi Mới, văn chương nước ta đã có những bước phát triển dài… Trong văn chương đã có những tài năng tác giả và phẩm chất tác phẩm ghi nhận được đặc điểm vừa thần kỳ vừa kỳ quái của một hiện thực đang rung chuyển, đang làm thay đổi cả cách nghĩ, cách nhận định và cách hành động của toàn xã hội. Văn chương đã bộc lộ được nhiều sắc thái tâm hồn, nhiều cung bậc trí tuệ và cũng nhiều mặt nạ.
Dư luận đương thời, qua ba chục năm vừa qua, coi đó là những thành tựu mang dấu bước đi lên trong tiến trình phát triển văn học nước nhà… Nhưng có chút nghịch lý trong tình hình làm thơ và đọc thơ bây giờ. Nghịch lý chỉ một chút thôi nhưng lại cần tìm giải pháp, một giải pháp đủ tinh tế, để khắc phục.
Quả có một nghịch lý trong giới thơ. Ấy là những người làm thơ ngày một tăng, và đều được gọi là nhà thơ. Hiện nay số lượng các nhà thơ trong nước ta phải tính bằng đơn vị vạn và các tập thơ xuất bản hàng năm cũng phải dùng tới đơn vị nghìn. Tỉ lệ nhà thơ bình quân trên số dân ở ta bây giờ hẳn là lớn nhất thế giới... Đến chín phần mười, có khi hơn thế, lượng nhà thơ bây giờ là do các câu lạc bộ thơ cung cấp.
Ở ta bây giờ ở đâu cũng có câu lạc bộ thơ. Và vào câu lạc bộ rồi thì thành nhà thơ. Họ không ăn lương thơ vào ngân sách nhà nước. Họ có lương hưu. Hoạt động của họ như hội họp, đọc thơ, in thơ… cũng là tiền riêng của họ. Làm thơ, với họ, như một cuộc chơi. Câu lạc bộ thơ cũng chỉ là một sân chơi. Mà chơi trong cõi tinh thần, chơi tình cảm, chơi trí tuệ… Viết một bài thơ là sống lại một chặng sống của mình, là nghĩ ngợi lại việc đời mà mình đã trải. Nó như một cuộc tự kiểm điểm về đạo lý, về phép ứng xử...
Bản thân việc ra đời các câu lạc bộ thơ không hề làm tổn hại thành tựu của nền thơ nước ta. Nhưng số lượng các ấn phẩm thơ xuất hiện trên thị trường sách thì có ảnh hưởng tới việc tiêu thụ thơ. Hiện nay số tập thơ ấn hành hàng năm gấp từ 30 đến 40 lần các giai đoạn trước (thí dụ 50 và 1.500 đến 2.000), Công tác biên tập bị coi nhẹ. Thơ chưa đạt chuẩn vẫn đưa ra thị trường bán chung với các tập “chính phẩm”. Để có được tập thơ đọc được, người đọc phải vượt qua ba, bốn mươi tập non lép hoặc rất non lép. Ít ai có đủ kiên nhẫn. Thơ bị ế. Các hiệu sách có sáng kiến: không nhập thơ, không bán thơ nữa. Trừ những hiệu sách tự làm lấy bản thảo và liên kết với các nhà xuất bản lớn để in và phát hành.
Như vậy số người làm thơ tăng lên, sách thơ xuất bản cũng tăng lên, nhưng người đọc thơ lại giảm đi. Giảm chưa từng có. Nhiều bạn hẳn đã nghe một câu ca dao mới lưu hành thầm trong giới thơ lúc này: “Gặp nhau tay bắt mặt mừng/ Tặng gì thì tặng xin đừng tặng thơ”
Nghĩ cũng tủi cho phận làm thơ. Những tập “đọc được” thì như đang ngạt thở dưới ba bốn chục tập xoàng che lấp ở phía trên. Đã thế lại không một chỉ dẫn nào của giới xuất bản hay phát hành giúp cho bạn đọc cách tìm ra nó.
Ai làm nên nỗi?
Từ xưa, thời chống Pháp chống Mỹ cũng thế. Văn chương phong trào và văn chương tác giả (tạm gọi thế, chứ giờ đây văn chương nào cũng có tác giả cả) đều có chức năng và mục đích khác nhau. Không sợ ai chiếm “ghế” của ai. Thời chống Pháp: Đèo cao thì mặc đèo cao/ Trèo lên đến đỉnh ta cao hơn đèo. Lục bát mà điệp vần là vụng nhưng người tiêu thụ khi ấy đang cần cái ý chí mà câu hò này mang lại đến nỗi không ai bận tâm đến cái vần cao lỗi vận kia.
Còn bây giờ: thơ ông Bảo Sinh: “Vợ là cơm nguội nhà ta/ Nhưng là phở tái thằng cha láng giềng”. Người ta chưa kịp bắt bẻ tác giả về tính tư tưởng, về tình đồng bào thì đã phải phá lên cười vì cái tính hiện thực thẳng thừng, cả hiện thực tâm trạng lẫn hiện thực xã hội... Khái quát được tình hình thương nghiệp thời bao cấp tem phiếu, sắc sảo nhất có lẽ là mấy câu vô danh này: “Tôn Đản là chợ của quan/ Nhà Thờ chợ của trung gian nịnh thần/ Đồng Xuân chợ của thương nhân/ Vỉa hè chợ của nhân dân anh hung”.
Đáng tiếc là cái mạch thơ xốc vác vốn có của thơ phong trào ấy lại bị bỏ qua. Nhưng dù thế, dù thơ có chưa hay hoặc chưa nhiều bài hay thì cũng không hại gì cho cả nền thơ. Chỉ có hại khi nó được dễ dãi in ra và trộn lẫn thứ phẩm vào chính phẩm để phát hành. Nhưng việc này lại thuộc quyền quản lý của ngành xuất bản và phát hành. Việc ấy cần giải quyết và có thể giải quyết được. Nhiều nước kinh tế thị trường đã có nhiều sáng kiến điều chỉnh giá sách theo chất lượng tác phẩm rất uyển chuyển và hữu hiệu, có tác động khích lệ tích cực tới chất lượng văn chương, ta rất nên áp dụng.
Sau khi bỏ nghề y sang làm thơ, tôi có tới hơn 12 năm liền (1972-1984) làm biên tập ở buổi Tiếng Thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Khi ấy truyền hình mới phát thể nghiệm, Tiếng nói Việt Nam là kênh thông tin gần người dân nhất. Buổi Tiếng Thơ cũng là một trong các buổi nhận được nhiều thư bạn nghe Đài. Thư trao đổi, nhận xét không nhiều nhưng thơ sáng tác gửi về thì nhiều lắm. Phần lớn chưa dùng được nhưng tấm lòng của bà con mong muốn chuyện của làng mình, buồn vui của lòng mình được Đài chuyển tới mọi người, thì anh em biên tập viên chúng tôi ai cũng nhận ra, ai cũng xúc động.
Chúng tôi nhận ra lòng trông cậy vào thơ của bà con ta, để được an ủi, được bảo vệ, được chia sẻ trước những cảnh ngộ thương xót hoặc niềm tự hào. Tôi đã có nhiều cuộc nói chuyện thơ với bà con ở mọi địa phương trong nước và các cộng đồng bà con ta ở nước ngoài, có cuộc tình cờ mà thành. Có cuộc do sở văn hoá hay thư viện tỉnh tổ chức nói liền nhiều ngày ở nhiều địa điểm của địa phương. Có buổi bà con phải chân trần lội bùn đường rừng mà vào. Hội trường ngoài trời, rộng, ghế gỗ dài gắn trên ván dốc lên cao dần. Thế rồi bùn ướt cứ tự nhiên mà thành bùn khô trên chân người yêu thơ… Tiếng cười tiếng vỗ tay càng khuya càng nồng nhiệt. Diễn viên ngâm thơ, diễn viên đàn sáo và cả người nói, say tình cử toạ, nói diễn như nhập đồng.
Chính trong bối cảnh mê say đó đã nảy sinh những kiểu sinh hoạt thơ do bà con yêu thơ tự tạo. Từ khi có quốc sách Đổi Mới thì hình thành phong trào câu lạc bộ thơ khắp nơi, trong mọi tầng lớp nhân dân, có đóng rất lớn về sinh hoạt văn hoá đại chúng. Bỏ qua những dị biệt chi tiết, có thể nhận ra ba chặng phát triển chung của các câu lạc bộ thơ.
Chặng một, thiên về tìm hiểu để hưởng thụ cái hay cái đẹp, cái ý nghĩa thâm thuý của thơ. Đây là chặng nâng cao năng lực thẩm mỹ của bạn đọc, tạo tiền đề cho thơ phát triển. Chặng này đã khai sinh ra tuần báo Thơ của Hội nhà văn Việt Nam.
Chặng hai, những độc giả cần mẫn của thơ bỗng thích thành tác giả. Số lượng thơ xuất bản tăng chóng mặt. Xuất hiện các dịch vụ làm sách; biên tập, chọn bài, trình bày, làm tuyền và các loại hội thảo… Vui nhưng hơi tốn. Cũng đã thấy mấy ông ranh ma kiếm chác: có ông tự khoe Phật nhập vào bút mình nên thơ đâm hay quá Hội Nhà văn phải hội thảo và ông phải vất vả để gửi thi Nobel. Gần đây không biết công ty du lịch nào lại phởn chí phong một lão bà là “nhà thơ thế giới” với rất nhiều chức danh thuộc ngành câu lạc bộ năm châu (!) Sau các buổi giới thiệu tác phẩm tưng bừng thì các hiệu sách lại từ chối nhận bán thơ, tạo nên cái nghịch lý mà ta đang bàn cách tháo gỡ.
Chặng ba: Không biết từ lúc nào, các hội viên câu lạc bộ lại chuyển cảm hứng xin vào các Hội nhà văn (Hội các tỉnh, thành và hội toàn quốc). Số đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cuối năm 2022 là hơn chín trăm. Có bạn tuyên bố: Sẽ vào Hội bằng bất kỳ giá nào (!). Cái sức ép “bất kỳ giá nào” ấy không hứa hẹn cho thịnh vượng văn chương lắm. Rất cần các quý hội nhà văn ta tìm ra quy chế kết nạp thoả đáng, phù hợp với thực chất phát triển của nghề mình.
Tách bạch chỗ tiến chỗ lùi của phong trào câu lạc bộ thơ qua mỗi chặng không dễ. Có chỗ hăng tiến quá lại hoá lùi. Mà có khi điềm đạm lùi lại hoá tiến. Nghề này vừa phải say lại vừa phải tỉnh. Say quá hoá buồn cười mà tỉnh quá thì hết văn chương. Có mỗi việc ấy là khó thôi. Còn thì nhờ trời cho.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

99
LÊN XUỐNG CÙNG THƠ

Các thầy ở trường bồi dưỡng viết văn thường có nhận xét nghe vui, nhưng không biết có thật không: “Năm đầu vào học nhiều em chọn bộ môn thơ. Năm thứ hai một số chuyển sang văn xuôi. Năm cuối xem chừng gần hết cả lớp đều muốn trở thành nhà phê bình”. Không biết có phải vì tâm lý ấy mà các nhà phê bình thơ và các bài phê bình thơ cứ phát triển đều đặn. Giọng điệu phê bình chung là biểu dương, ca ngợi, có khi ca ngợi đến hết lời. Thi hữu thi huynh đôi bên đều vui, chỉ có bạn đọc là hoang mang, rồi nghi ngờ, rồi tự bảo vệ mình là không đọc nữa. Thế là cả phê bình thơ lẫn thơ đều mất khách. Lỗi của bạn đọc, đúng là thiếu kiên nhẫn. Nhưng chúng ta, trong nghề thì nên tiên trách kỷ. Vả lại mình không lo cho mình thì ai lo.
Chưa có thời kỳ nào văn học nghệ thuật nhiều giải thưởng như thời kỳ này. Thơ cũng vậy. Đủ các loại giải: giải hàng năm của hội, giải định kỳ của nhà nước, giải theo tuổi nghề, theo địa phương, theo đề tài, theo các cuộc thi nhiều cấp bậc... Ai chưa được giải dù cả đời theo đuổi văn chương thì được giải “công lao của sự kiên trì”. Đấy là thiện ý của các nhà quản lý thi đua sản xuất văn chương: “Không muốn để sót một ai”. Điều này cũng phù hợp với thời cuộc đang cơn mến yêu thành tích, lại còn tăng cường đoàn kết, gắn bó cộng đồng; nhưng cũng có tác dụng không mong muốn là sức hấp dẫn của văn chương được giải ngày càng hao hụt và sức thuyết phục của giải cũng mòn dần. Nguyên nhân không phải do nhiều giải mà là sự công bằng chính xác trong xét giải. Đã đến lúc phải tìm ra quy chế mới trong bình chọn, trong cấu tạo những ban giám khảo có tài năng nhận ra giá trị đích thực của thơ, tìm ra thơ hay để tặng giải và chỉ tặng giải cho thơ hay. Phẩm chất giám khảo tạo nên uy tín giải thưởng và ngược lại.
Thẩm định có tác động nhiều nhất đến bạn đọc chính là thẩm định của biên tập viên các toà báo, các nhà xuất bản và cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Cơ chế thị trường đòi hỏi các cơ sở xuất bản tăng khối lượng sản phẩm để tăng lợi nhuận. Điều đó quả có thúc đẩy khâu biên tập bao dung hơn với chất lượng tác phẩm. Đây cũng là nguyên nhân khá quan trọng làm thơ mất độc giả, báo chí mất bạn đọc. Luật pháp cấm ấn hành tác phẩm xấu chứ không cấm tác phẩm dở. Quyền viết dở là của mọi người chứ không thể dành riêng cho các nhà thơ nổi tiếng. Số tập thơ hay, cố nhiên phải lọt thỏm và rất khó tìm trong đống ấn phẩm khổng lồ hàng ngàn tập thơ ra đời mỗi năm kia là tất yếu. Không thể kêu gọi các doanh nhân giảm lợi nhuận để cứu nền thơ của chúng ta. Nhưng kinh nghiệm về định giá sách văn chương của nhiều nước có thể giúp chúng ta tìm ra cơ chế thích hợp. Có điều, quyền hạn hành chính cho việc này vượt qua chức năng Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ khi đất nước ta tiến hành đổi mới, số người làm thơ, in thơ, tham dự các sinh hoạt thơ tăng đột biến, Hội Nhà văn Việt Nam đã đưa được một ngày hội văn chương (Ngày thơ Việt Nam) vào hệ thống lễ hội truyền thống, được bạn đọc ủng hộ 15 năm nay. Đó là một thành tựu văn hoá, có tác động tốt trong xây dựng phẩm chất xã hội, nhân cách con người.
Chúng ta đã có được một mạng lưới câu lạc bộ thơ ca rộng lớn so với nhiều quốc gia nhưng chúng ta chưa tìm ra phương cách hoạt động hiệu quả cho nó. Sao thơ làm ra nhiều, in nhiều mà lại không có người đọc, kể cả người làm thơ cũng ít đọc? Không tự nguyện làm độc giả thì làm sao làm được tác giả? Không tìm vào đó, không làm giàu mình lên được, tiến sẽ chậm, rất chậm, có khi còn thui chột. Đọc, với chúng ta, không phải chỉ là thưởng thức, dù biết thưởng thức cái hay cái đẹp của thơ đã là một thành tựu, một hạnh phúc lớn. Mà đọc còn là khám phá. Đừng sa đà vào những ồn ào danh hiệu, những óng ánh ngỡ là thơ mà rất không thơ.
Chúng ta trân trọng với lao động sáng tạo của mọi người cầm bút. Nhưng đánh giá hoặc giới thiệu thành tựu văn chương của đất nước với bạn đọc thế giới thì trước hết, chúng ta cần tìm tới những tác phẩm - tác giả ở khu vực này. Tính chuyên nghiệp, tính hàn lâm của họ được quyết định chỉ do phẩm chất tác phẩm, không phải do các yếu tố thuộc tổ chức như lĩnh lương từ một cơ quan văn chương, hay là thành viên một hội đoàn nghệ thuật. Họ buộc phải là người dẫn đầu, phải tiên phong trong sáng tạo, phải đại diện cho dân tộc đóng góp vào văn chương thế giới, làm nên văn chương nhân loại. Nhưng thường gặp hơn, họ là những người dành cả đời mình cho văn chương.
Nhiều tác phẩm được công chúng thơ tìm đọc, trong khi không ít những tác giả là hội viên Hội Nhà văn, lại nằm ngoài sự quan tâm của bạn đọc. Tham gia Hội Nhà văn có thể để ghi nhận một dấu mốc nghề nghiệp chứ không bao giờ là cái đích của người cầm bút. Việc đầu tiên để làm văn chương chính là tìm hiểu về chính nó…
VŨ QUẦN PHƯƠNG
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

100
THƠ TÌNH FACEBOOK

1.
Nếu không có thơ thì đời sống này sẽ ra sao, nhỉ? Nếu không có thơ thì chúng ta vẫn sống, vẫn làm việc, vẫn phải lấm lưng kiếm tiền, vẫn uống rượu, vẫn cà phê cóc với bạn bè, vẫn nay yêu mỹ nhân này mai hẹn hò với nhan sắc khác… Nhưng chắc chắn, sẽ buồn lắm. Không có thơ, thì chúng ta biết vứt cảm xúc của mình vào đâu. Ngôn ngữ nói, không chuyển tải hết được những gì chúng ta muốn thể hiện. Và giả mà không có thơ, chúng ta sẽ tán gái như thế nào.
Tán gái, là một việc hệ trọng. Không chỉ là hệ trọng, mà là vô cùng hệ trọng. Chắc chắn, bi kịch lớn nhất của một gã đàn ông là không tán được gái. Đương nhiên, cũng có một cơ số đàn ông không cần tán gái, nhưng cơ số này chúng ta không bàn đến.
Muốn có những tận cùng niềm vui, tận cùng hạnh phúc, tận cùng khổ đau,… chúng ta phải được yêu. Không được yêu, thì lấy gì biết chuyện tận cùng. Bạn đừng tranh cãi với tôi, bạn có rất nhiều nỗi đau, rất nhiều phiền muộn, rất nhiều nỗi niềm. Nhưng chắc chắn, đó chưa phải là nỗi đau tận cùng, phiền muộn tận cùng hay nỗi niềm tận cùng.
Không có gì khiến bạn cảm thấy cô đơn hơn, khi vừa chia tay mối tình đầu. Không có gì khiến bạn lâm vào tình trạng sống không được, chết không xong khi chứng kiến cảnh người bạn yêu về làm dâu nhà người khác. Không có gì bóp nghẹt bạn hơn nỗi nhớ quay quắt về một khuôn mặt thương yêu.
Và phải có những sự tận cùng, thì chúng ta mới ý thức rằng chúng ta tồn tại. Chúng ta không sợ những biến động của đời sống, tiền nhân dạy rồi: “Vật cùng tắc biến”. Chúng ta chỉ sợ một cuộc đời nhàn nhạt, đều đều và không có gì nổi bật. Yêu đương giúp chúng ta thoát khỏi cảm giác buồn chán này. Yêu đơn phương hay yêu được hồi đáp, thì quan trọng gì cơ chứ. Cái cốt yếu là chúng ta được yêu. Yêu một cách vô điều kiện, yêu không vụ lợi…
Nói nãy giờ, chỉ để muốn khẳng định chuyện, tán gái là việc vô cùng hệ trọng. Chính vì tán gái là việc vô cùng hệ trọng, nên làm thơ để tán gái là việc vô cùng nghiêm túc.
Bạn cứ hỏi những nhà thơ nổi tiếng khắp Việt Nam này, họ sẽ không làm được các câu thơ hay, nếu như họ không tán gái. Tất nhiên, tôi không nhắc đến chuyện họ thất tình, họ bị phụ tình hay thậm chí là họ là đối tượng chính chơi trò tình phụ.
Facebook là nơi bạn thể hiện cảm xúc hay chỉ là để giải toả những cơn stress của công việc. Bạn có thể chém gió trên facebook, bạn có thể tán tỉnh trên facebook, bạn có thể tự nhận mình đẹp trai nhất ViệtNam trên facebook, như tôi chẳng hạn. Nhưng tôi nghiệm ra rằng, facebook không đơn thuần chỉ là thế giới ảo.
Dẫu muốn dẫu không thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, facebook đã trở thành một phần của cuộc sống (không chỉ là cuộc sống thị dân, mà còn là cuộc sống của những cá nhân ở khắp mọi miền). Sự tương tác của facebook giúp mọi người có được nỗi hưng phấn của đời sống.
Nhà thơ Hồng Thanh Quang, có câu với đại ý rất hay: Sáng tác trên facebook giúp nhà thơ có một tâm thế khác. Khi mình viết trên facebook, sự phản hồi của bạn đọc là cực nhanh. Thậm chí, chắc chắn có rất nhiều người đang chờ đón những gì mình viết.
Thế nên, còn gì tuyệt vời hơn khi kết hợp giữa thơ tình và facebook.

2.
Theo thói quen, tôi vẫn thường ngồi với anh Phạm Thanh Long, Lê Minh Quốc, ít nhất là mỗi tuần một lần, vào những buổi sáng khác nhau. Từ cái dạo, anh Long phát động cuộc thi “Thơ tình facebook”, anh em ngồi toàn nói về chuyện này. Chỉ trong một khoảng thời gian cực ngắn, từ ngày 1/5 đến 1/6/2013, cuộc thi đã có hơn 10 nghìn tác phẩm của nhiều tác giả gửi đến dự thi. 30 ngày cho 10 nghìn tác phẩm, nhẩm tính là hơn 300 bài/ngày. Đây là con số mơ ước với tất cả các cuộc thi văn chương, không chỉ gói gọn trong phạm vi nước ta mà cả nước ngoài cũng vậy. Nếu không có facebook, hẳn nhiên lượng thơ gửi về tham dự cuộc thi không nhiều đến thế.

Phạm Thanh Long, là một nhân vật tôi đã viết trong bài ký chân dung Phạm Thanh Long - Người không được quyền chết, in trên Chuyên đề An ninh Thế giới Giữa tháng và Cuối tháng cách đây ít lâu. Anh là một cá nhân đặc biệt đối với anh em văn nghệ sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh. Anh yêu quý mọi người thật lòng, nên tình cảm mọi người dành cho anh cũng chân thật.
Anh tổ chức “Thơ tình facebook”, đúng tiêu chí là sân chơi dành cho mọi người yêu thơ biết công nghệ (mà thời điểm này, còn có mấy người không chơi facebook đâu). Anh bỏ ra hàng trăm triệu để lo cho cuộc thi, anh tự soạn thảo giấy mời, liên lạc với tác giả gửi thơ dự thi, anh xin giấy phép in tuyển tập 115 bài thơ tình facebook…
Anh cứ làm quần quật từ sớm cho đến khuya, tôi hay đùa: “Xong cuộc thi này, anh trẻ ra vài năm nhưng già đi nhiều tuổi”. Anh cười, đáp: “Chủ yếu là vui thôi”. Đời sống vốn hữu hạn, không vui thì còn gì là đời sống. Có những thời điểm, vui giúp chúng ta quên đi thực tại.
Có một chi tiết ít người biết, khi cuộc thi thơ được sự ủng hộ của các thí sinh, những đơn vị truyền thông… thì ít nhất hơn một lần Phạm Thanh Long từ chối sự tài trợ của các hãng điện tử lớn. Anh không thích được tài trợ, bởi vấn đề không phải là tiền, vấn đề chính là: “Anh không muốn để cuộc thi bị chi phối bởi chuyện tài trợ này kia kia nọ”.
Phải có được lối suy nghĩ phóng khoáng và rất thơ đó, thì cuộc thi do anh khởi xướng mới quy tụ được thành phần Ban giám khảo gồm những nhà thơ tên tuổi, mà bất cứ cuộc thi thơ nào cũng mong muốn mời được. Bao gồm: nhà thơ Văn Lê, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ Hồng Thanh Quang, nhà thơ Lê Minh Quốc và nhà thơ Nguyễn Phong Việt. Những nhà thơ đầy tài hoa và đến với thơ bằng sự hồn nhiên của gã trai tơ lần đầu tiên biết đến bàn tay con gái.

Tối trước ngày trao giải của cuộc thi (ngày 18/7/2013), tôi được ngồi với tất cả các nhà thơ nằm trong Ban giám khảo, toàn nói những câu chuyện phù phiếm, hoàn toàn không nhắc đến ai sẽ được giải mấy, ai sẽ được giải gì. Tính nghiêm minh của cuộc thi là tuyệt đối. Phạm Thanh Long tối ấy đến muộn, anh còn bận lo chuyện sân khấu để trao giải vào sáng hôm sau. Anh rủ rỉ với tôi: “Có tổ chức mới biết, dân nước mình yêu thơ đến mức nào”. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng khẳng định: “Dân tộc ta là một dân tộc mê thơ, mê đến độ nói cũng ra thơ”.
Có cô gái Việt ở Nga, tiếc đến xót xa vì không về được để tham dự lễ trao giải. Có cô giáo ở Nha Trang bằng mọi giá phải đặt vé máy bay để kịp vào thành phố Hồ Chí Minh, có bác cao tuổi được con cháu dìu đến hôm trao giải để đọc một bài thơ của cố thi sĩ Xuân Diệu góp vui, có cây bút trẻ bị bại liệt, ngồi xe lăn đến dự… Có rất nhiều những cá nhân làm đủ ngành nghề, từ lãnh đạo cho đến lính trơn, từ có danh vị trong đến đang lập danh, đều đến để “vui với thơ”. Là vui với thơ thôi, chứ họ không quan tâm gì đến chuyện giải thưởng hay không giải thưởng. Thơ mà, điều quan trọng nhất khi đến với thơ là không được tư lợi. Cảm xúc ép câu chữ bật ra, chứ làm sao sử dụng những thuộc tính thông thường mà ép chữ xuất hiện.
Cho dù tác giả Sâm Cầm có đoạt giải nhất hay không? Cho dù tác giả Hoàng Anh Tuấn có đoạt giải nhì hay không? Cho dù tác giả Phạm Trang có đoạt giải ba hay không? Cho dù 15 tác giả có đoạt giải khuyến khích hay không? Hẳn nhiên đó là điều không còn quan trọng nữa. Bởi đây là ngày hội của những người yêu thơ, bấy nhiêu đó là đã quá đủ đầy rồi. Thậm chí, chuyện Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục: “Cuộc thi thơ lần đầu tiên tổ chức trên facebook với số lượng người tham gia và tác phẩm nhiều nhất”, trao cho anh Phạm Thanh Long hay không, cũng không phải là mục đích mà những người khởi xướng cuộc thi này hướng đến.
Tôi thích vô cùng những câu thơ của Hoàng Anh Tuấn, những câu thơ đậm dấu phong tình héo hắt xa xưa: “Anh xuống huyện theo bạn bè làm thợ/ Nợ áo cơm ít có dịp thăm nhà/ Chiều nay tắt đường rừng qua bản Phố/ Váy em kìa, phơi trước cửa người ta?” (Trích Mùa Phơi Váy). Hay những câu thơ với chữ và tứ đầy trong trẻo của Sâm Cầm: “Em định dạng Sài Gòn cho riêng em/ Dù nắng, dù mưa, hay vô khối ngày ẩm ương anh đều có mặt/ Tất nhiên, những buổi đêm anh biến mất/ Sài Gòn sẽ cuống cuồng tìm anh... Trong giấc mơ em” (Trích Sài Gòn, Sài Gòn).
Có quá đáng lắm không khi nói, thơ tình facebook như làn gió tươi mới rất cần thiết để thổi cảm xúc vào lòng tất cả mọi người. Để biết rằng, facebook hoàn toàn không phải là một thế giới ảo đơn thuần, mà đó chính là nơi để gặp gỡ và góp nhặt những yêu thương thuần khiết

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiSBmfvT_dfRPWBCnwzL_aSp7Ek00o6XxqjMq_ZJNyG6qzXnx3jFOr__JGuoFNB3_KRydn9K14ZvVEIf7Hj9n1SPk4jfP8fw0xXt_1USYExVJtZHPtwS22_5pX1CitoEQItSeloLF_u4PZq8At6fs661IM1fUdrKYMyOG-kmEPqMvz-Gi3lUkcqbbANKpUX/w640-h312/1000-FB.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

KHI ĐỒNG MINH
THÁO CHẠY

Nguyễn Tiến Hưng


https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJZftHlg4SoYJ29VmGxqPaMlcUBr6pMZMEPmZc46I4C6XvJPYxK1wwPg4bAywklLSMRL1yQT26kZhOwGpRT7hB7YBOguu-gmh9-uwLqJmi88x9yBzGHN_2ZthJAFRSLqDbdLpYdacKByX9KVbh8FR7PnsMzmzRWzJXkfMpRwDE5CpJfUo0kZGQif_Dl33R/w432-h640/1.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJZftHlg4SoYJ29VmGxqPaMlcUBr6pMZMEPmZc46I4C6XvJPYxK1wwPg4bAywklLSMRL1yQT26kZhOwGpRT7hB7YBOguu-gmh9-uwLqJmi88x9yBzGHN_2ZthJAFRSLqDbdLpYdacKByX9KVbh8FR7PnsMzmzRWzJXkfMpRwDE5CpJfUo0kZGQif_Dl33R/w432-h640/1.PNG


DANH SÁCH CHƯƠNG
"KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY"


Lời Nói Đầu: Sao Lẹ Thế

Phần 1: Làm Sao Thoát Khỏi Vũng Lầy
Chương 1: Việt Nam Bầu Nixon
Chương 2: Kissinger, Ông Là Ai?
Chương 3: Củ Cà Rốt Và Cái Gậy
Chương 4: Lui Vào Bóng Tối

Phần 2: Thân Phận Tiểu Quốc
Chương 5: Tự Túc Tự Cường
Chương 6: Cú Sốc Mùa Thu
Chương 7: Làm Thế Nào Để Bớt Lệ Thuộc?

Phần 3: Khi Đồng Minh Tháo Chạy
Chương 8: Năm Của Định Mệnh
Chương 9: Nhát Gươm Đao Phủ
Chương 10: Lúc Tuyệt Vọng
Chương 11: Che Giấu Quốc Hội, Nhân Dân Hoa Kỳ
Chương 12: Hãy Giúp Chúng Tôi / Một Ân Huệ Cuối Cùng
Chương 13: "Sao Chúng Không Chết Phứt Cho Rồi!"

Phần 4: Rước Của Nợ Hay Được Của Có?
Chương 14: Ai Không Muốn Di Tản Người Việt?
Chương 15: Vào Để Giúp... Ra Lại Bắn Nhau?
Chương 16: Vĩnh Biệt Ông Đại Sứ
Chương 17: Một Cố Gắng Cuối Cùng

Phần 5: Nhìn Lại Lịch Sử
Chương 18: Bao Nhiêu Trắc Trở Lúc Ban Đầu
Chương 19: Tại Sao Sụp Đổ
Chương 20: Những Bài Học Từ Cuộc Chiến Việt Nam

Thay Lời Cuối: Thiện Tâm Của Nhân Dân Hoa Kỳ
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY
Nguyễn Tiến Hưng
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1RyA2JDLbRnhEAFxMSOnytrQWoo2QlL8VG_OrwsHdNsKVfbdLaxxxWbPUel3G6kAtqu5yIMoRbFfRoM7F-V9nJTG0eA5SLdRs_fFsB97GUq4ZeWeN649PrqvnGButahsmvwekAEYn7wESmJ6DelMBH6r1ib1NI-yu2FbGNJW23QuAjwKibgnvbb6G3Po1/w640-h312/100-NTH.PNG
LỜI NÓI ĐẦU


Sao lẹ thế? Ngày 10 tháng Ba, 1975 Quân đội Bắc Việt đánh chiếm Ban Mê Thuột. Đến ngày 30 tháng Tư đã tiến vào Sàigon. Tốc độ như vũ bão, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày! Không lẽ một cuộc chiến kéo dài tới hai mươi năm, đến khi kết thúc lại nhanh như vậy?
Rồi cuộc di tản tiếp theo. Trước hết lạ thời gian di tản, sao nó quá ngắn ngủi? Tuy hai cuộc chiến năm 1954 và 1975 kết thúc trong những hoàn cảnh khác hẳn nhau, ta vẫn có thể hỏi tại sao khi Pháp rút khỏi Miền Bắc, thời gian được quy định là 300 ngày. Bây giờ đến lúc Mỹ rút hết khỏi Miền Nam thì không có quy định gì hết, cuộc di tản chỉ kéo dài được vỏn vẹn năm ngày!
Nói tới cung cách ra đi, sao lại quá thê thảm? Năm 1954, dù chỉ là di tản từ Bắc vào Nam và năm 1975 thì di tản sang Mỹ nên hai biến cố khác nhau, nhưng phần nào ta cũng so sánh được việc đoàn người ra đi có trật tự, rất ít nguy hiểm ở lần đầu, với cuộc di tản nháo nhào, đầy rủi ro, hãi hùng vào lần thứ hai. Rốt cuộc, tại sao số người được cứu vớt lại quá ít ỏi? Hồi 1954, Mỹ chưa trực tiếp dính líu vào Việt nam mà đã giúp chuyên chở, rồi định cư cho một triệu người, tức là 7% dân số Miền Bắc. Sau hai mươi năm can thiệp với hơn một nửa triệu quân, sống chết với 20 triệu dân quân Miền Nam, giờ đây lại chỉ định cứu có 50.000 người. Tới phút cuối cùng mới vớt thêm. Tất cả không tới 130.000 người, nghĩa là có 0,6% dân số.
Phóng viên: "Thưa ông, cứ cho là Hoa kỳ đã bội ước, nhưng còn lý do gì khác khiến chúng tôi phải đưa người Việt vào Mỹ không?"
Tác giả: "Tượng Nữ thần Tự do đang nhắc nhở cho chúng ta rằng nước Mỹ là đất của những kẻ bị truy nã, của di dân".
Phóng viên: "Tôi xin nhắc nhở cho ông là Nữ thần Tự do quay mặt về phía Đại Tây Dương".
Ý nói là bà quay lưng về phía Á châu, phía Việt nam chúng ta.
Đây là một giai thoại trong phiên họp báo của chúng tôi ngày 30-4-1975 (ngày 1 tháng 5 giờ Sài gòn) tại khách sạn May Flower trên đường Connecticut, Washington, D.C.
Mục đích của cuộc họp nhằm kêu gọi Hoa kỳ cứu vớt những con thuyền đang lênh đênh như lá tre ngoài bờ biển Vũng Tàu.
Vô cùng xúc động, chúng tôi không cầm được nước mắt. Câu mỉa mai này đã ám ảnh chúng tôi từ giây phút đó, và chắc sẽ không bao giờ phai nhoà đi được trong ký ức.
Sau 30 năm rồi mà ta chưa tìm được câu trả lời thoả đáng cho những thắc mắc trên. Biến cố lịch sử năm 1975 đã để lại những ấn tượng sâu đậm trung tâm trí của tất cả chúng ta, những con người Việt nam, dù ở trong hay ngoài nước. Mỗi người một hoàn cảnh, một cảm xúc, một số phận. Một số quý vị đang cầm cuốn sách này trong tay là những người thuộc thành phần may mắn, không nhiều thì ít, đã thoát được bao nhiêu rủi ro. Thành phần khác đã chịu số phận nghiệt ngã, giờ đây chỉ còn là những oan hồn vất vưởng trong lòng Thái Bình Dương.
Và sau này, những thế hệ mai sau, con cháu chúng ta sẽ tiếp tục thắc mắc: tại sao cha mẹ, ông bà mình lại bỏ quê cha. đất tổ chạy sang Mỹ? Sang bao giờ? Trong hoàn cảnh chính trị xã hội, kinh tế ra sao? Sang bằng cách nào? May mắn? Lúc đầu như thế nào? Làm sao mà sinh sống? Không bà con, không tiền, không nghề nghiệp thích hợp, không cùng ngôn ngữ, làm thế nào mà nuôi được con cháu ăn học thành tài như ngày nay?
Gần 20 năm trước, năm 1986, tôi đã cùng Jerold Schecter, nguyên chủ bút tuần báo TIME xuất bản cuốn "The Palace File" (Hồ sơ mật Dinh Độc Lập - Hồ sơ mật Dinh Độc Lập). Cuốn sách đề cập nhiều tới Hiệp định Paris và ảnh hưởng bất lợi của nó.
Đối tượng chủ yếu là độc giả Mỹ, đặc biệt là các nhà làm chính sách Hoa kỳ. Tổng trưởng ngoại giao thời đó là ông George Schultz (trong chính quyền Reagan) có viết cho chúng tôi là ông đã đưa cuốn này vào thư viện nhỏ của Văn phòng Tổng trưởng ngoại giao ở Foggy Bottom. Các vị kế nghiệp ông sẽ được đọc. Năm 1988, tờ New York Times đã chọn cuốn "The Palace File" dể vào số những sách mà các ứng cử viên Tổng thống cần phải đọc, với tựa đề: "Vừa đọc vừa vận động: Một lớp cấp tốc cho chức vị Tổng thống" (Read and Run: A Ram Course for the Presidency).
Khi Đồng minh tháo chạy, được viết căn bản là cho độc giả Việt nam.
Sách gồm năm phần chính:
Phần I: bàn về thời điểm và cách thức Mỹ tháo khỏi chiến trường Việt nam;.
Phần II: nói đến thân phận một tiểu quốc muốn cố gắng vượt ra khỏi sự lệ thuộc;
Phần III: kể lại những gì đã xảy ra tại Washington và Sài gòn sau khi quân đội Mỹ rút hết cho tới khi Miền Nam sụp đổ
Phần IV: trình bày diễn tiến vào giờ hấp hối, việc một số chính trị gia Mỹ đã không muốn cứu vớt người Việt nam, đặc biệt là về cơ nguy Mỹ- Việt suýt bắn nhau; phần này cũng thuật lại một cố gắng cuối cùng của tác giả đặt trách nhiệm tinh thần cho Hoa kỳ đòi hỏi phải giúp cho ít nhất một triệu người ty nạn;
Phần V: nhìn lại lịch sử để ghi nhận cho con cháu những khó khăn, chống đối lớn lao cha ông chúng đã gặp lúc ban đầu; phần này thâu tóm một nguyên nhân chính làm sụp đổ Miền Nam, cũng như những bài học rút ra từ cuộc chiến cho những thế hệ tương lai của Việt nam và các Đồng minh của Hoa kỳ hiện đại.
"Thay lời kết", chúng tôi đề cập tới thiện tâm của nhân dân Hoa kỳ, vì sau cùng, cánh tay của đại đa số đã rộng mở, tiếp nhận đoàn người tỵ nạn trong một thời gian trên hai thập niên.
Sách này dựa vào một phần cuốn Hồ sơ mật Dinh Độc Lập và vào những nghiên cứu thêm của tác giả trong mười năm qua. Trong cả hai cuốn, ngoài phần tài liệu, chúng tôi đã bổ sung bằng những phỏng vấn với các viên chức hữu trách cả hai phía Việt nam cộng hoà và Hoa kỳ; đặc biệt là Tổng thống Nguyễn văn Thiệu (tại London và Boston), Tổng thống Gerald Ford, Ngoại trưởng Henry Kissinger, tướng Alexander Hai, tướng John Murray, các Tổng trưởng quốc phòng liên hệ như James Schlesinger, Melvin Laird, Elliot Richardson và các viên chức cao cấp Cơ quan Tình báo CIA. Tổng thống Richard Nixon khi còn sống đã từ chối cuộc phỏng vấn vì lý do sức khoẻ.
Điều mà cuốn Khi Đồng minh tháo chạy muốn nhấn mạnh, nhất là cho người Việt nam chúng ta rõ, là cung cách mà một số chính khách Hoa kỳ, đặc biệt là ông Kissinger, và phần nào, hai ông Nixon, Ford cũng như một số nghị sĩ, dân biểu với con mắt thiển cận, đã hành xử đối với nhân dân Miền Nam. Nó phản bội nguyên tắc "minh bạch" (transparency) của thể chế dân chủ, và đi ngược lại tinh thần công bình của đại đa số nhân dân Hoa kỳ. Trong bóng tối, trước hết hai ông Kissinger - Nixon đã dùng thủ đoạn ép buộc Miền Nam đi theo đường lối của mình, mục đích chính chỉ là để cho quân đội Mỹ rút đi, và tù binh được thả về. Khi Chính phủ Miền Nam phản kháng thì đe doạ với "cái gậy" (đảo chánh và cắt viện trợ), và hứa hẹn với "củ cà rốt" (bảo đảm hoà bình và viện trợ đầy đủ).
Hứa hẹn xong thì lờ đi, giấu cho thật kỹ. Quốc hội không biết gì hết nên đã cắt giảm viện trợ một cách quá nhanh và quá thẳng tay. Hoá ra, củ cà rốt chỉ là một công cụ che giấu một kế hoạch gọi là "khoảng thời gian coi cho được". Kế hoạch này chỉ nhằm ban phát cho Miền Nam Việt nam một thời gian ngắn ngủi, một khoảng cách từ khi Mỹ rút hết cho tới khi sụp đổ. Trước khi cuốn sách này lên khuôn, một nhân chứng về những hành động hắc ám của ông Kissinger, ông John Negroponte vừa được Tổng thống George Bush trao phó chức vụ Điều khiển toàn bộ tình báo Hoa kỳ. Ông là liên lạc viên giữa Kissinger và phái đoàn Bắc Việt tại mật đàm Paris. Ngày 19 tháng Hai, 2005, tờ Boston Globe có bài viết về ông này và bình luận: "tuy hồi đó Negroponte chỉ là nhân viên cấp dưới, ông đã có tinh thần rất độc lập và đã phản đối Kissinger về việc chấp nhận để quân đội Bắc Việt đóng lại Miền Nam, cho rằng như vậy là đưa Miền Nam tới chỗ sụp đổ và hành động này có nghĩa là đã bỏ rơi Đồng minh của Hoa kỳ. Ông Richard Holbrooke (Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc thời Tổng thống Clinton, và là bạn đồng liêu với Negroponte lúc còn ở Hội đồng an ninh quốc gia) có nói rằng chính vì Negroponte đã chống lại Kissinger mà bị hạ tầng công tác trong gần suốt thập niên 1970".
Đối với Miền Nam, ngay trước lúc sụp đổ hoàn toàn, ông Kissinger còn thốt lên: "Sao chúng không chết phứt cho rồi?". Sau đó, kế hoạch tháo chạy dược thiết kế lúc đầu căn bản chỉ là để di tản 6.000 người Mỹ và một số rất ít người Việt. Cho dù nhiều người có thể biện luận rằng việc giải kết khỏi Miền Nam là điều có lợi cho nước Mỹ đi nữa, nó cũng chỉ là ích lợi đoản kỳ, ở vào thời điểm đó thôi. Trong trường kỳ, việc bỏ rơi, nhất là cung cách tháo chạy đã làm tổn hại rất nhiều tới "mức độ tin cậy" (credibility) của chính sách ngoại giao cũng như uy tín Hoa kỳ. Bạn thì bớt tin tưởng, thù thì hết kính nể. Sau Việt nam, vào tháng 10, 1979, Iran đã táo tợn đến độ bắt ngay cả nhân viên Toà đại sứ Mỹ ở Teheran làm con tin hơn một năm. Rồi từ đó, bao nhiêu vụ tấn công vào người và tài sản của Mỹ. Liệu những hành động của Saddam Hussein, Al-qaeda, biến cố gây nổ tàu Cole ở Qatar, hay sự cố 11-9 có phải là những hậu quả của việc coi thường Hoa kỳ hay không? Bởi vậy, về lâu về dài, cái giá phải trả chắc chắn đã không phải là thấp.
Tất cả những sự việc ở hậu trường bang giao Việt - Mỹ trong giai đoạn từ khi Mỹ tháo gỡ cho tới lúc bỏ chạy được rất ít người biết tới. Lý do là vì: về phía Mỹ, hồ sơ mật về Việt nam trong giai đoạn này đã được giấu kín trong văn phòng Cố vấn Kissinger tại Toà Bạch Ốc; và về phía Việt nam cộng hoà, nó được hoàn toàn bảo mật trong văn phòng riêng của Tổng thống Thiệu tại Dinh Độc Lập.
Nhiều tác giả nổi tiếng của Mỹ về vấn đề Việt nam cũng đã phải bình luận về việc này. Trong cuốn Uncertain Greatness, chính ông Roger Morris, nhân vật quan trọng trong Hội đồng an ninh quốc gia (National Security Council (NSC) do ông Kissinger điều khiển, đã phàn nàn: "Dù rằng nó là một vấn đề được viết và bàn luận nhiều nhất trong chính sách ngoại giao, nhưng hồ sơ của Nixon - Kissinger về Đông Dương trong nhiều phương diện đã ít được hiểu biết nhất… Sự việc mà dưới thời Johnson là một mạng rối rắm giữa các động lực hành chính ở Sài gòn và Washington… bây giờ hầu như đã trở nên một sự khống chế của chỉ hai bộ óc trong Toà Bạch Ốc (Kissinger và Nixon).
Một tác giả nổi tiếng khác, ông Leslie Gelb trong cuốn The Irony of Vietnam: The System Worked, đã viết: "Câu chuyện về chính sách Việt nam dưới thời Richard Nixon và Gerald Ford là một chủ đề quan trọng…, nói về việc Hoa kỳ đã rút ra chứ không phải đã nhảy vào Việt nam như thế nào… (thế nhưng) những nguồn tài liệu cần thiết để phân tích giai đoạn từ sau 1968 chắc sẽ không có được trong một thời gian nữa".
Hy vọng rằng cuốn Khi Đồng minh tháo chạy sẽ lấp được phần nào cái lỗ hổng này của lịch sử. Âu cũng do định mệnh mà người viết được chứng kiến một số sự việc xảy ra tại dinh Độc Lập cũng như tại Bộ Quốc phòng và Quốc hội Hoa kỳ trong những ngày tháng đầy tuyệt vọng. Trước hết với tư cách là một Phụ tá Tổng thống, rồi Tổng trưởng Kế hoạch trong nội các. Là người điều hợp viện trợ trên bình diện kinh tế toàn quốc người viết làm việc trực tiếp với Tổng thống Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng. Trong cương vị này, hồi 1974-1975 nhiều lúc chúng tôi đã phải dẹp bỏ tự ái, lui tới Quốc hội Hoa kỳ như một người đi cầu xin.
Vì đã quen với lề lối làm việc ở Mỹ trong nhiều năm trước khi trở về nước giúp tái thiết nền kinh tế, chúng tôi đã luôn luôn mang theo cuốn sổ tay nho nhỏ màu vàng mỗi khi đi họp để ghi chú diễn tiến buổi họp. Kèm theo là những nhận xét hay cảm nghĩ của riêng mình vào ngay lúc đó, viết trong ngoặc. Ở Sài gòn, những cuộc họp gồm có các buổi giữa cấp lãnh đạo tối cao, các buổi họp giữa Tổng thống Thiệu và giới chức Hoa kỳ. Tại Washington là các buổi họp với một số viên chức cao cấp tại bộ Ngoại giao, bộ Quốc phòng, và một số Nghị sĩ, Dân biểu tại Quốc hội Hoa kỳ.
Ngoài ra, tôi có ghi lại những cuộc đàm thoại, những chỉ thị cũng như tâm tư, cảm xúc của Tổng thống Thiệu trong nhiều bữa ăn một mình với ông, hay trong những lúc thư giãn nhấm nháp ly rượu vào buổi chiều tối.
Một phần của những ghi chép đó được dùng trong cuốn sách này. Nhằm bổ sung phần ghi chép, chúng tôi đã cố nghiên cứu thêm trong thời gian qua để tìm hiểu sâu rộng hơn về những diễn tiến đưa tới sự sụp đổ mau lẹ của Miền Nam và cuộc di tản tiếp theo.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

[2]
Trong phần nghiên cứu và trích dẫn thêm, ngoài những tài liệu nội bộ, chúng tôi còn dựa vào hồi ký đã được xuất bản của các nhân vật chính yếu tham gia vào lịch sử của thời gian này (như các Tổng thống Nixon, Ford, ngoại trưởng Kissinger, Phụ tá Ehrlichman, Haldeman, Phụ tá báo chí Nessen), và sách của một số tác giả uy tín (như các ông Butler, Hersh và hai anh em ông Kalb). Chúng tôi ghi nhận và cám ơn các tác giả và các nhà xuất bản (xem phần “Sách tham khảo”).
Về những tài liệu nội bộ, quý nhất là tập hồ sơ tối mật về bang giao Việt - Mỹ dưới thời hai Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford. Đầu tháng Ba, 1975, Tổng thống Thiệu có cho chúng tôi xem một vài lá thư, rồi một tháng sau, ông đã trao phó toàn bộ văn kiện. Thật là một may mắn mà hồ sơ đó đã được cứu vãn cho lịch sử. Mang nó theo khi bước chân lên chiếc máy bay Pan Am đi Washington ngày 15-4 trong công tác cuối cùng cho Việt nam cộng hoà, chúng tôi hết sức lo âu. Lo là vì về phía Mỹ, Bộ Ngoại giao đang chối đi là không có cam kết gì bí mật hết. Tài liệu này đã được giấu kín, kín đến độ chính Tổng thống Ford cũng như ở trong bóng tối. Mãi tới sau khi Huế bị bỏ ngỏ và Đà Nẵng đã di tản, ông mới được đọc vài bức thư trong số những văn kiện tối mật của Tổng thống Nixon gửi Tổng thống Thiệu. Và việc ông Ford đọc được là do chính chúng tôi khởi xướng.
Cái trớ trêu là vào những ngày giờ cuối cùng, giữa Dinh Độc lập và Toà Bạch Ốc đã chẳng còn có đường dây nào để liên lạc, trao đổi?
Nguyên thuỷ, tôi chỉ là một giáo sư kinh tế học, rồi làm Tổng trưởng kế hoạch, có ngờ đâu lịch sử lại đưa đẩy vào cái thế phải chạy loanh quanh để đi tìm “người đưa thư” (là tướng Fred Weyand) cho Tổng thống Việt nam cộng hoà. Cái khó vào lúc đó là làm sao chuyển được thư của một Tổng thống Mỹ này tới tay một Tổng thống Mỹ khác mà không qua Bộ Ngoại giao? Sau này, nghị sĩ Henry “Scoop” Jackson (Dân chủ, tiểu bang Washington) đã phải phàn nàn rằng: “Thật là lố bịch và nguy hiểm khi Quốc hội và nhân dân Hoa kỳ phải nhờ vào quan chức ngoại quốc (ông Hưng) mới biết được những văn kiện tối quan trọng này” (xem Chương 17).
Rồi tới những bức thư cầu cứu cuối cùng của Quốc hội Việt nam gửi Quốc hội Hoa kỳ: chắc đã bị “thất lạc” rồi? Cho tới nay, không có một dấu vết gì là chúng đã đến tay Quốc hội. Làm sao có thể hiểu được là guồng máy ngoại giao của một đại cường quốc như Hoa kỳ lại trở nên lạ lùng như vậy?
Khi đọc được ba trong số những bức thư của Tổng thống Nixon gửi Tổng thống Thiệu, Tổng thống Ford đã xúc động, sau đó ông ra phi trường đón tiếp lớp trẻ mồ côi Việt nam vừa được chở tới San Francisco. Tay bồng một em bé, ông bước xuống máy bay, có chiều âu yếm. Và từ giây phút này có lẽ ông đã thay đổi thái độ về vấn đề tỵ nạn. Ông còn xin thêm quân viện cho Việt nam cộng hoà, dù biết rằng đã quá muộn. Trước đấy, sau cuộc rút lui cam go của Quân đoàn II và cuộc di tản kinh hoàng từ Đà Nẵng, ông Ford vẫn bình chân như vại, đi Palm Springs đánh gôn. Năm 1985 khi chúng tôi phỏng vấn và đưa ông Ford đọc lại mấy bức thư của Tổng thống Nixon, ông vẫn còn tỏ vẻ ngậm ngùi: “Không còn một nghi ngờ nào hết, đây là những lời cam kết hết sức quyết liệt” (Well, there is no doubt these were very categoncal commitments). Tổng thống Ford nhận xét như vậy là chính xác.Tuy nhiên, nghe như đãi bôi vì kể cả sau khi ông được biết như trên, ông vẫn để cho Ngoại trưởng kiêm Cố vấn của ông che dấu Quốc hội và nhân dân Hoa kỳ. Vào ngày cuối cùng, trong một cuộc họp báo, chúng tôi quyết tâm phơi bầy cho công luận những cam kết vô cùng quyết liệt ấy với mục đích yêu cầu cho một triệu người Việt được tỵ nạn. Cấp lãnh đạo hành pháp cũng như lập pháp Hoa kỳ đã rất ngạc nhiên về những tiết lộ này. Sau đó, rõ ràng có sự thay đổi thái độ về vấn đề chấp nhận đoàn người tỵ nạn. Và chúng tôi đã có dịp được đóng góp thêm cho việc sắp xếp các trại cũng như việc xuất trại, tìm công ăn việc làm cho đoàn người tỵ nạn đợt đầu.
Ngoài những tài liệu mật về bang giao Việt - Mỹ, tác giả đã đàm đạo với Đại sứ Martin, sau khi ông về hưu. Ông là Đại sứ Mỹ cuối cùng ở Miền Nam và là người đã bị bắt buộc phải thi hành mệnh lệnh tháo chạy. Bản thân chúng tôi đã gặp ông nhiều lần để tìm hiểu những gì đã xảy ra bên trong Toà đại sứ trước khi chiếc trực thăng Lay Ace 09 mang lệnh Tổng thống đến bốc ông đi. Ông cho biết một số những diễn tiến quan trọng lúc con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm. Ông còn cung cấp một số tài liệu quý giá cho lịch sử. Trong những tài liệu này, phải kể tới bức thư Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt nam. Ngoài ra, còn một số mật điện trao đổi hết sức quan trọng giữa ông và Kissinger vào lúc những ngày giờ cuối.
Đại sứ Martin cho hay là ông muốn chờ một thời điểm thuận tiện để sẽ “nói lên lời cuối cùng” về những mánh lới, những thủ đoạn đâm sau lưng của một vài chính trị gia tại Washington. Ông rất muốn bình luận thêm về một nguy cơ thực sự có mà chính ông đã giúp tránh né được. Đó là suýt nữa có đụng độ lớn giữa mấy sư đoàn Thuỷ quân lục chiến Mỹ với quân lực Việt nam cộng hoà vào giờ chót. Nó có thể đưa tới chỗ đổ vỡ hoàn toàn. Và trong tình huống ấy, sau hai mươi năm kề vai sát cánh, Việt nam cộng hoà lại trở thành kẻ thù của Hoa kỳ? Nếu như vậy thì số phận của mỗi người trong chúng ta đã ra sao?
Về phương diện cá nhân, ông Martin còn muốn viết về chuyến ra đi nhục nhã của chính bản thân ông. Ông cho rằng việc này đã làm tiêu hao biết bao nhiêu uy tín của nước Mỹ. Bộ Ngoại giao dường như không để ý nhiều tới những khổ tâm của ông, lại còn trừng phạt, cho ông ngồi chơi xơi nước tại Bộ trước khi về hưu. Và ông đã về hưu sớm hơn là đến kỳ hạn.
Theo chúng tôi được biết, Tổng thống Thiệu cũng đã có ý định viết hồi ký. Thế nhưng cả hai người đều đã không đủ thời giờ để viết. Cả hai đều đã đi về nơi chín suối, mang theo bao nhiêu ngậm ngùi, chua xót. Một người thì ngậm ngùi, hổ thẹn cho tư cách của một đại quốc, một người thì ân hận, chua xót cho thân phận của một tiểu quốc.
Nhân ngày đánh dấu mười năm sụp đổ Miền Nam (30 tháng 4, 1985), tờ New York Times đăng câu phê phán cuối cùng của Đại sứ Martin: “Rút cuộc, chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ý chí dân tộc của Hoa kỳ đã sụp đổ” (In the end, we simply cut and ran. The American national will have collapsed). Tôi xin mượn một phần câu ông nói làm đầu đề cho cuốn sách này.
Tác giả hoàn toàn không ở địa vị đủ cao cấp để nói lên lời cuối, nhưng nhờ một cơ duyên của lịch sử đã may mắn được gặp lại cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhiều lần ở London và Boston để nghe và ghi lại những lời cuối cùng của ông về cuộc chiến. Ngoài ra, còn được nghe những lời thổ lộ từ tâm huyết của vị Đại sứ Mỹ cuối cùng tại Miền Nam, Graham Martin, trước khi ông qua đời. Ông còn căn dặn là chúng tôi nên viết lại những gì được nghe và được chứng kiến để đóng góp cho lịch sử.. Cuốn sách này không đề cập tới toàn bộ những lý do đã dẫn tới sự sụp đổ của Việt nam cộng hoà. Dĩ nhiên là trước thất bại, ta phải tự trách mình trước: “tiên trách ký hậu trách nhân”, hay “mea culpa "(lỗi tại tôi). Về khía cạnh chính trị nội bộ của Miền Nam chẳng hạn, tác giả không đề cập tới những nguyên nhân mà các tác giả khác đã phân tích rất nhiều: như sự chia rẽ nội bộ, tư cách và khả năng cấp lãnh đạo, tham nhũng, độc tài; hay những thái độ chống đối, thờ ơ, tránh né từ phía một vài thành phần nhân dân. Cũng không bình luận là lãnh vực quân sự, cả về chiến lược lẫn chiến thuật. Về những địa hạt này, tuy chúng tôi có được nghe nhiều điều đáng buồn về các cấp lãnh đạo chính yếu, nhưng không đủ khả năng, hiểu biết, và kinh nghiệm để nhận xét cho thấu đáo. Về phía Hoa kỳ, tác giả cũng không đề cập nhiều tới những yếu tố khác như phong trào phản chiến, vai trò báo chí Mỹ, hay chiến thuật quân sự, những đề tài dã được phân tích khá rộng rãi.
Hy vọng rằng cuốn Khi Đồng minh tháo chạy sẽ giúp độc giả có thêm được những dữ kiện mới và chính xác để tìm ra câu trả lời cho nhiều thắc mắc, nhiều uẩn khúc còn đeo đẳng, và qua dòng thời gian, vẫn chưa được sáng tỏ. Đây chỉ là một cố gắng thuật lại cho trung thực những gì mình đã mắt thấy tai nghe, và những gì đã tìm hiểu dược để chia sẻ với người đồng hương về một chương lịch sử quan trọng của đất nước, đồng thời đúc kết lại những bài học cho các thế hệ mai sau. Ngoài ra, nó cũng có thể cung cấp một số dữ kiện cho các nhà làm chính sách về bang giao với Mỹ của các Đồng minh khác. Nhờ đó, họ có thể hiểu rõ hơn về thể chế dân chủ cũng như về cơ cấu và khung cảnh chính trị tại Hoa kỳ, chứ đừng nhìn vào Hoa kỳ với cặp kính cận riêng của mình.
Chúng tôi đã chờ một thời gian khá dài mới bắt đầu viết cuốn sách này vì ba lý do: thứ nhất, để hầu hết người Việt nam chúng ta có thể nhìn lại giai đoạn lịch sử cuối cùng của VNCH một cách khách quan hơn, không bị quá nhiều tâm tình, hoàn cảnh cá nhân chi phối; thứ hai, để chúng tôi có đầy đủ thời giờ nghiên cứu, phỏng vấn, suy gẫm cho thật sâu, thật kỹ; và thứ ba, để cho chính tác giả bớt được cường độ xúc động trước khi viết, giúp cho tác phẩm được trung thực. Về điểm này, chúng tôi đã dẫn chứng tất cả những sự việc, hành động, lời nói bằng văn bản hoặc bằng những ghi chú về nguồn gốc sự kiện (footnotes).
Tuy nhiên, dù đã cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn không thể tránh khỏi một số suy nghĩ hay ngôn từ có tính cách chủ quan. Về nhược điểm này, cũng như những sơ sót, lầm lẫn trong cuốn sách, tác giả tin vào sự thông cảm của độc giả.
° ° °
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ tất cả những bạn bè xa gần đã khích lệ và hỗ trợ tác giả trong việc sưu tầm và soạn thảo cuốn sách này. Đặc biệt là: Hứa Chấn Minh, Chủ tịch công ty Phụng hoàng, người dã theo đuổi công việc của chúng tôi trong nhiều năm, và đã xuất bản cuốn sách này. Anh Chu Xuân Viên, người đã giúp nhuận sắc cuốn HSMĐL, lại giúp sửa chữa thêm cuốn Khi Đồng minh tháo chạy. Bạn Tạ Văn Tài đã tận tâm đóng góp cho tôi nhiều ý kiến xây dựng, nhờ đó cuốn sách được xúc tích hơn. Các anh Trần Khánh Liễm, Thuần Trương, và Vũ Huy Hoàng đã chịu khó đọc bản thảo, thêm ý kiến và giúp nhuận sắc. Các bạn Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Liêm, Đỗ Ngọc Hiển, Vũ Chính Trực, Lê Ái sẵn sàng tiếp tay, cho tôi những nhận xét, và gợi ý rất hữu ích. Bạn Nguyễn Xuân Nghĩa đã dành thì giờ đọc bản thảo cuối cùng, giúp sửa chữa, trình bày thêm phần khởi sắc. Bạn Nguyễn Thiện Cơ giúp sắp xếp về kỹ thuật, và phần danh mục (index). Bác sĩ Phó Ngọc Văn, người luôn thúc đảy tôi kiên tâm, và dù lúc còn nằm trên giường bệnh, cũng vẫn gọi điện thoại dể khích lệ, đóng góp thiều ý kiến. Các bạn Lê Văn và Virginia Lê, Đăng Khánh và Hương Hoa cũng như Vũ Văn Hoa, đã không ngơi cổ võ, làm tôi thêm hăng say trong việc sưu tầm và biên soạn.
Tôi xin thành thật cám ơn Jenold L. Schecter, nguyên chủ bút ngoại giao của tạp chí Time, cựu Phụ tá giám đốc báo chí Toà Bạch Ốc, và Phát ngôn viên Hội đồng an ninh quốc gia, đã cùng tôi viết cuốn The Palace File (1986) , và đã giúp đỡ khích lệ tôi viết cuốn sách này.
Sau cùng tôi không thể không nhắc đến sự giúp biên soạn, sửa chữa, hy sinh của nhà tôi Therese N. Hưng; và các anh, chị, em, con, và cháu, thuộc đại gia đình cụ ông cụ bà Cố Chánh Nguyễn Xuân Phi, luôn luôn nâng đỡ tinh thần tôi trong những giai đoạn thăng trầm của cuộc đời.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY
Nguyễn Tiến Hưng
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi3Sy0EuMWi42G9LzVJEi_zfwKOJXIu1Opt40Qjsd2c1Pgh1hn_lFrMSU33nLY20FLW5WPYNZMqz_04wu-nQZnYJ8MncbDAi5qNIuBoIDglRwnBC5khhDNITEYNj7uqzHbUzMMJhTfrutYTGQdozAyDfJvBG2spnK6YkGDYyKObs5aoRErBVSvVjdGImxU_/w356-h640/501-MT.PNG
Phần I. LÀM SAO THOÁT KHỎI VŨNG LẦY
Chương 1
Việt Nam bầu Nixon


"Tôi tin chắc rằng sự việc đó (hành động của ông Thiệu) đã khiến ông Humphrey thất cử"
Lyndon B. Johnson
Hồi ký The Vantage Point 1971


Chiếc xe limousine đậu sẵn ngoài sân cỏ. Khách bắt tay Tạm biệt chủ, thong thả bước xuống bậc thềm. Đùng một cái, một trái pháo rơi nổ ngay phía trước mặt. Khách vội vã bước vào xe, tài xế đóng sập cửa. Chiếc xe mầu đen có còi hú phóng đi vun vút. Đoàn tuỳ tùng theo sau. Chắc là một điềm gở? Ông Nguyễn Văn Thiệu vừa thắng cử, Tổng thống Lyndon Johnson phái Phó Tổng thống Hubert Humphrey sang Sài gòn dự lễ tấn phong. Sau phần nghi lễ ông Humphrey vào gặp ông Thiệu ở Dinh Độc Lập, có Đại sứ Bunker và Ted Van Dyk tháp tùng. Trong giây phút huy hoàng của ngày đăng quang, ông Thiệu vui vẻ tiếp vị quốc khách. Chắc rằng Phó Tổng thống Hoa kỳ sẽ có những lời chúc tụng, an ủi, làm yên lòng vị Tổng thống đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng hoà.
Thế nhưng, vừa uống xong ly là, Humphrey đã chậm rãi: "Ngài cần biết về tình hình chính trị ở Hoa kỳ, hiện nay đã đến lúc cần phải có một giai đoạn chuyển tiếp để Miền Nam có thể tự lực, tự cường". "Vâng tôi hiểu," ông Thiệu đáp, "nhưng chúng tôi còn cần phải có sự hiện diện của Hoa kỳ với mức độ hiện tại". "Thêm vài năm nữa với cùng một mức độ viện trợ quân sự và kinh tế như hiện nay thì chắc không thể có!" Humphrey nói tiếp ông Thiệu lắng nghe, tàn than điếu thuốc lá Gauloise ông đang hút dở rớt ngay xuống tấm thảm dầy. Nói xong, phái đoàn ông Humphrey tạm biệt. Ông Thiệu tiễn đưa khách quý ra thềm Dinh Độc Lập. Vừa bước xuống thềm, chính ông Humphrcy đã mục kích cảnh pháo kích.
Từ mùa hè 1967, lúc dư luận bắt đầu nói về cuộc bầu cử Tổng thống Hoa kỳ, nhiều người bạn Mỹ đã nói với tôi là phải hết sức thận trọng. Bây giờ nghe ông Humphrey nói như lúc này, tôi biết ngay là sắp tới lúc chính sách Hoa kỳ thay đổi như ông Thiệu kể lại. Và từ sau cuộc gặp gỡ ông Thiệu đã có một ấn tượng rất rõ rệt về ông Humphrey: ông này mà làm Tổng thống thì Mỹ sẽ rút hết, để Miền Nam "tự lực, tự cường".
Chiến tranh Việt nam đã chấm dứt 30 năm qua mà dư âm cuộc chiến VN vẫn còn như phảng phất đâu đây. Người ta luôn nhắc đến nó trong các cuộc tranh luận, gần nhất là chiến tranh Iraq.
Chỉ nói về hai ứng cử viên Dân chủ, Cộng hoà trong cuộc tranh cử năm 2004 (John Kerry và George Bush) là đã có vấn đề tranh cãi kéo dài cả mấy tháng. Rồi đến chuyện bài học về chiến tranh Việt nam: nếu Hoa kỳ có tham chiến ở đâu thì phải đánh nhanh, đánh mạnh rồi rút ngay (như ông Bush "Cha" đã làm). Chớ có đóng quân lại mà bị sa lầy. Vì thế, nghị sĩ Edward Kennedy, một nhân vật có ảnh hưởng của đảng Dân chủ, đã gọi Iraq là "Việt nam của ông Bush (con)" bài học cho Hoa kỳ thì nhiều người đã rút tỉa. Nhưng về những bài học cho Đồng minh của Mỹ trong thời chiến thì ít ai nói tới. Một trong những bài học đó là mỗi khi có bầu cử Tổng thống, Hoa kỳ sẽ có biện pháp mạnh để chứng tỏ thiện chí xây dựng hoà bình. Sớm là vào trước năm tuyển cử. Muộn là vào cuối hè năm tuyển cử, lúc hai Đảng họp chọn ứng cử viên Tổng thống. Hiện tượng này cũng đã tái diễn trong cuộc bầu cử 2004. Mùa thu năm 2003, Chính phủ Bush đã tuyên bố là sẽ trao trả quyền hành cho Iraq vào cuối tháng 6, 2004, làm cho những người lãnh đạo mới của Iraq (được Mỹ ủng hộ) rất lo ngại, nhưng cũng phải đồng ý. Ảnh hưởng của bước đi này là làm giảm sự lo sợ của nhân dân Hoa kỳ về chuyện sa lầy. Rồi lúc chuyển giao quyền hành lại cũng đã được thực hiện vào thời điểm bất ngờ: hai ngày trước ngày đã ấn định. Báo chí đăng tin rầm rộ. Gần đến ngày bầu cử, Toà Bạch Ốc lại tuyên bố sẽ rút một số quân từ các địa điểm ngoại quốc về Mỹ. Washington còn công bố lịch trình bầu cử tại Iraq, ấn định vào cuối tháng Giêng 2005, dù có những phe phái của Iraq còn cho rằng điều kiện an ninh và xã hội của họ chưa cho phép bầu cử. Người được bầu làm Tổng thống chắc cũng biết được khi bầu cử xong là Mỹ sẽ nói tới việc rút quân. Và rồi tân Tổng thống của Iraq cũng sẽ nói "chúng tôi còn cần sự có sự hiện diện của quân đội Hoa kỳ trong một thời gian nữa".
Cứ bốn năm, mỗi khi có bầu cử Tổng thống Hoa kỳ là có áp lực vào Đồng minh. Đó là một trong những kinh nghiệm của Miền Nam Việt nam trong suốt cuộc chiến. Thời Đệ nhất cộng hoà, trước khi Tổng thống Kennedy ra tranh cử nhiệm kỳ hai vào năm 1964, Tổng thống Ngô Đình Diệm bị nhiều áp lực từ mùa Hè 1963, sau đó bị sát hại vào ngày 1-11 thời Đệ nhị Cộng hoà, trước cuộc bầu cử tháng 11, 1972, Tổng thống Nixon áp lực Việt nam cộng hoà ký Hiệp định Paris. Và vào năm trước kỳ tuyển cử 1976, Tổng thống Ford đã làm ngơ, để Miền Nam lui vào dĩ vãng cho yên ổn.
Trở lại thời Đệ nhất cộng hoà, sau Tổng thống Kennedy tới phiên Tổng thống Johnson.

Bắt đầu muốn tháo gỡ.
Tết Mậu Thân (31-1-1968) là cái mốc lịch sử quan trọng. Sau khi mọi chuyện đã ngã ngũ, về mặt quân sự, Mỹ coi đó như một thành công, nhưng về mặt tâm lý, nó đã là một thất bại lớn. Lần đầu tiên các cuộc thăm dò dân ý cho biết số người chống đối chiến tranh (50%) đã vượt lên cao hơn số ủng hộ (42%) 1 . Báo chí đặt nhiều vấn đề về độ đáng tin cậy của lập trường Chính phủ Mỹ. Ngày mồng 10 tháng 3, khi tờ New York Times tiết lộ rằng tướng William Westmoreland vừa xin thêm 206.000 quân, một bầu không khí nặng nề hiện ra rất rõ từ loà Bạch Ốc 2 . Lúc đó có mặt tại Washington, chúng tôi còn nhớ những buổi chiều khi ba hệ thống truyền hình Mỹ phát sóng báo cáo tin tức từ Việt nam, kèm theo là những câu hỏi hóc búa, những bình luận bi quan, ôi sao nó ê chề đến thế! Bộ Ngoại giao cũng như toà Bạch Ốc, khi trả lời báo chí rõ ràng là đã đứng vào thế thủ, chỉ chống đỡ. Vừa mới ba tháng trước, ông Westmoreland lên truyền hình trấn an nhân dân Mỹ là mọi việc đều tốt đẹp và sắp tới lúc nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm. Bây giờ, đùng một cái, Việt Cộng vào tới tận Toà đại sứ.
Câu hỏi hóc búa là nếu đang thắng, tại sao lại phải xin tăng thêm tới 40% quân số? 3 .
Nhiều nhà bình luận cho rằng biến cố Mậu Thân là Điện Biên Phủ đối với Tổng thống Johnson 4 . Ông bị bại trận về tâm lý. Khi Tổng trưởng quốc phòng Robert Mcnamara xuống tinh thần, ông Johnson hết chỗ tựa. Năm 1984 ông Mcnamara mới thú nhận là ngay từ khi Mỹ mang quân vào (1965-1966), ông cũng đã có những hoài nghi về cuộc chiến. Như vậy tại sao ông lại hăng hái chủ trương mang quân vào Miền Nam? Người ta cho rằng ông chỉ muốn chiều ý Johnson lúc đó vì nhắm chức chủ tịch Ngân hàng thế giới 5 . Tết Mậu Thân là thời điểm tốt cho ông tính đến việc tháo lui. Bị chống đối dữ dội, lại thấy "diều hâu" Mcnamara bắt đầu tránh né, Tổng thống Johnson mệt mỏi, chán chường.
Ngày 31 tháng Ba, đúng hai tháng sau Mậu Thân, ông tuyên bố sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ hai nữa. Đồng thời ra lệnh ngưng oanh tạc Bắc Việt từ trên vĩ tuyến 20 để kêu gọi đình chiến. Đình chiến xong là rút quân về.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

[2]
Bầu cử, bầu cử:Hãy đi Paris?
Tổng thống Johnson lại đề cử ngay Phó Tổng thống Hubert Humphrey thay ông ra tranh cử vào tháng 11, 1968.
Tuyên bố ý định không ra ứng cử từ cuối tháng Ba, Johnson đã cho Humprey đủ thời giờ để tổ chức, vận động. Humphrey tranh cử với lập trường chấm dứt chiến tranh, đem lại hoà bình. Nhưng nếu chấm dứt bằng cách đơn phương bỏ cuộc thì Hoa kỳ sẽ bị thế giới coi thường. Như vậy là thua rồi! Phải có một Hiệp định đình chiến do chính Việt nam cộng hoà ký thì mới danh chính ngôn thuận. Sau này, ông Thiệu kể lại ngay sau cuộc thăm viếng của ông Humphrey, nhân một chuyến đi quan sát chiến trường Miền Nam, Tổng trưởng quốc phòng Mcnamara cũng đã nhấn mạnh: "Chúng tôi cần có một cuộc bầu cử (ở Miền Nam) để điều đình với Bắc Việt. Đại sứ Bunker thì luôn nói tới "Cần có hoà đàm để chứng tỏ với Quốc hội và nhân dân Hoa kỳ là chúng ta – Hoa kỳ và Việt nam cộng hoà - đều muốn hoà bình" 6 .
Kế hoạch của ứng cử viên Humphrey được thành hình vào tháng Năm 1968, khi ông Cyrus Vance đại diện cho Hoa kỳ và ông Hà Văn Lâu đại diện cho Bắc Việt đến họp tại Paris để thảo luận về chi tiết những cuộc hoà đàm chấm dứt chiến tranh. Lúc đó, Chính phủ Việt nam cộng hoà chưa chịu tham gia vì Sài gòn muốn trực tiếp đàm phán với Hà Nội, Mặt trận giải phóng miền Nam (MTGPMN) chỉ tham gia như một phần của phái bộ Bắc Việt mà thôi. Nhưng nếu Chính phủ Miền Nam không tham gia thì làm thế nào để có được một Hiệp định cho sớm?
Ông Humphrey không thể thắng cử nếu viễn tượng hoà bình chưa sáng tỏ vào ngày bầu cử mồng năm tháng 11, 1968.
Càng gần ngày bầu cử, áp lực từ Washington đến càng mạnh. Đại sứ Ellsworth Bunker tìm mọi cách thuyết phục ông Thiệu gửi phái đoàn sang Paris dự hoà đàm, càng sớm càng hay.

Bầu cử, bầu cử: Đừng đi Paris?
Cùng lúc ấy, ông Thiệu lại nhận được những lời ve vãn từ phía đối thủ của ông Hubert Humphrey, đó là ông Richard Nixon. Thông điệp phía Nixon lại trái ngược hẳn: "Chớ tham gia hoà đàm Paris, cố trì hoãn càng lâu càng tốt để đợi ông Nixon lên Tổng thống, mọi chuyện sẽ tốt đẹp" 7 .
Những người làm trung gian lúc đó là bà Anna Chennault và Đại sứ Bùi Diễm. Bà Chennault rất được ông Thiệu tin cậy. Bà là người gốc Trung Hoa, quả phụ của tướng Claire Chennault, chỉ huy đoàn Phi Hổ (Flying Tigers), một nhóm tình nguyện của Mỹ chiến đấu chống Nhật hồi Đệ nhị thế chiến. Sau khi chồng chết năm 1958, bà thay thế ông làm quản trị viên của hãng hàng không Phi Hổ. Trong những chuyến bay qua Đông Nam Á, bà thường ghé Sài gòn và đến thăm ông Thiệu. Có lần bà còn được mời ra nghỉ ở villa Bảo Đại Vũng Tàu. Bà đóng một vai trò chủ yếu trong nhóm "Vận động cho Trung Hoa" (Chia Lobby) và gây quỹ tranh cử cho đảng Cộng hoà. Bà Chennault ra vào tự do trong chính giới ở Washington và rất hãnh diện về những quen biết của mình ở đó. Bà gặp Nixon lần đầu tiên vào năm 1954, khi ông sang thăm Đài Loan với tư cách Phó Tổng thống. Năm 1960, bà cổ động cho nhóm vận động của Nixon chống Kennedy.
Anna Chennault thăm viếng Sài gòn thường xuyên vào năm 1968, để thông tin cho ông Thiệu về sự tranh cử của Nixon và những quan điểm của ông đối với Việt nam. Bà nói với ông Thiệu rằng Nixon sẽ là một người ủng hộ Việt nam mạnh mẽ hơn Humphrey nhiều. Sau này, bà kể lại cho chúng tôi: "Ông Thiệu bị phe Dân chủ làm áp lực nặng. Công việc của tôi hồi ấy là cố giữ cho ông ta đừng thay đổi ý kiến". Đại sứ Bùi Diễm, qua sự giới thiệu của bà, còn được ông Nixon tiếp kiến và dặn là nếu có tin tức gì thì cứ đưa cho bà Chennault. Bà sẽ phúc trình thẳng cho John Mitchell, người phụ trách vận động tranh cử cho Nixon. Trong buổi gặp gỡ, Nixon hứa hẹn là nếu thắng cử, sẽ coi vấn đề Việt nam là ưu tiên số 1, và "bảo đảm sẽ dành cho Việt nam một sự đối xử thuận lợi hơn phe Dân chủ". 9

Mưu lược của ông Thiệu
Ông Thiệu biết quá rõ về lập trường của ông Humphrey. Nếu ông ta thắng cử thì có nghĩa là sẽ có một Chính phủ liên hợp (với Cộng sản) trong sáu tháng; còn nếu Nixon thắng thì ông cũng còn có hy vọng, ông kể lại cho chúng tôi nghe vào một buổi chiều mùa xuân năm 1985 tại London. Ông cho rằng sau khi có một Chính phủ liên hiệp thì Mỹ sẽ rút đi hết, mặc Việt nam cộng hoà cho số phận quyết định. Bởi vậy, ông đánh một ván bài liều.Kế hoạch của ông Thiệu là cố gắng trì hoãn quyết định của Tổng thống Johnson về việc ngưng oanh tạc Bắc Việt và về việc Việt nam cộng hoà tham dự Hoà đàm Paris.
Lửng lơ con cá vàng, ông không hề nói "không" với ông Bunker, mà luôn nói "có, với điều kiện". Cứ cù nhày để mua thời giờ cho ứng cử viên Cộng hoà Richard Nixon. Có lúc ông còn dùng ngay những "thể chế dân chủ" do chính người Mỹ giúp Miền Nam dựng nên để tránh né: ông viện cớ là vì lề lối làm việc dân chủ, ông còn phải tham khảo ý kiến Quốc hội và Hội đồng an ninh quốc gia. Ông Thiệu biết là nếu găng quá thì Johnson có thể lấy quyết định đơn phương, cho nên ông không công khai phản đối đề nghị của Johnson, mà chỉ phản đối những chi tiết, đòi thêm điều nọ, điều kia. Đúng là cung cách xoay xở để tồn tại của một người mưu lược.
Trong tuần lễ chót trước ngày bầu cử, John Mitchell "hầu như mỗi ngày" liên lạc với bà Chennault để thuyết phục ông Thiệu đừng tham dự hoà đàm Paris. Cả hai đều biết là Cơ quan điều tra Liên bang (FBI) lén nghe điện thoại, và bà nói đùa với Mitchell: "Ai đang nghe đầu dây bên kia?" Mitchell thì không cho câu rỡn đó là hài hước và nói: "Bà nên dùng điện thoại công cộng, đừng nói chuyện ở sở?". Lời nhắn nhủ mà Mitchell chuyển cho bà lúc nào cũng giống như nhau: "Đừng để cho ông Thiệu gửi phái đoàn sang Paris" 10 .
Một vài ngày trước bầu cử, Mitchell điện thoại cho bà Chennault, nhờ chuyển một thông điệp khác cho ông Thiệu. "Anna, tôi nói đây là theo lệnh của Nixon. Điều quan trọng là những người bạn Việt của chúng ta cần phải hiểu rõ quan điểm của Đảng Cộng hoà, và tôi mong bà giải thích cho họ như thế" 11 .
Dù nhận được đầy đủ phúc trình của CIA và FBI về những cuộc điện đàm giữa bà Chennault và Sài gòn, ông Johnson quyết định không công bố việc ấy ra vì sẽ bị mang tiếng là "nghe lén" và cứ tiến hành sáng kiến hoà bình của mình để giúp cho ông Humphrey 12 .
Ông Thiệu "án binh bất động", tiếp tục không nhúc nhích, nhưng cho phía Mỹ cảm tưởng mập mờ là trước sau rồi ông cũng sẽ nghe theo để dự hoà đàm. Đại sứ Bunker mắc mưu, phúc trình với Washington là nếu chờ thêm ít hôm nữa, Chính phủ Sài gòn có thể sẽ ngồi vào bàn hội nghị. Dùng chiến thuật đánh lạc hướng, ông Thiệu lại còn gửi một "phái đoàn tiền phong" sang Paris để "thu xếp chỗ ở và chuẩn bị cho sự tham dự của phái đoàn Việt nam cộng hoà. Và cứ đong đưa như thế; khi thì đưa ra những phản đối mới, khi thì rút lại những chướng ngại chiến thuật, và lần nào cũng mất hai ba ngày mới giải quyết xong.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 17 trang (167 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối