Cải cách Ruộng đất: Số người bị giết ở VN ít hơn bên Trung Quốc nhưng ‘di chứng lâu hơn’
Cho đến ngày hôm qua, Việt Nam vẫn chưa làm một tổng kết cụ thể, công khai về con số nạn nhân của Cải cách Ruộng đất mà thời gian diễn ra từ 1948 hoặc từ 1953 đến 1955, tuỳ theo tài liệu.
Bernard Fall, tác giả viết về Bắc Việt Nam, nêu ước tính 50 nghìn người ở miền Bắc VN trong giai đoạn 1953-55 bị quy là ‘địa chủ’ và xử tử. Theo ông, con số bị tống vào các trại cải tạo phải “ít nhất là gấp đôi như thế”.
Hoàng Văn Chí trong sách của mình về miền Bắc VN thời VNDCCH cho rằng “chừng 5% dân số miền Bắc, tức vào khoảng nửa triệu người” bị chế độ mới giết.
Nhà báo Gareth Porter lại nêu con số ít hơn nhiều: 800-2500 vụ xử tử trong Cải cách Ruộng đất.
Sử gia Edwin Moïse nêu con số cao hơn nhưng cho là từ 5000 tới 15.000.
Nhà nghiên cứu Mông Cổ, Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Hungary, Đông Âu và Liên Xô cũ về Bắc VN, viết trong bài “Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955 -56” (Cold War History, 2005), thì nêu ra con số trong phần so sánh nạn nhân Cải cách Ruộng đất ở Bắc VN và Cải cách Thổ địa ở Trung Quốc.
Theo ông Szalontai, số liệu thu thập được tại Bắc VN cho thấy các con số sau: 1.337 vụ xử tử, 23.748 người bị xử tù.
Phạm vi của ‘khủng bố’ rất rộngTuy số bị xử tử không cao bằng chiến tranh, nhưng “tầm vóc của khủng bố” (scope of terror) mà Đảng Lao động Việt Nam tung ra, thì bao trùm toàn xã hội, theo tác giả Mông Cổ.
Quá trình này diễn ra liên tục, nhắm vào người dân, đảng viên đem lại qua các đợt Chỉnh huấn, chỉnh quân, Giảm tô, Cải cách Ruộng đất, thanh trừng văn nghệ sĩ, bộ máy đảng
Chỉ trong đợt Giảm tô: 7,7 triệu người dân và hàng trăm nghìn gia đình buộc phải tham gia và chịu hệ luỵ.
Trong Cải cách Ruộng đất đợt chính thức: 4 triệu người ở 1.594 xã, tính đến tháng 12/1955 chịu tác động.
Trong số này 18.738 bị quy kết là “cường hào ác bá giả danh trung nông”.
Chính quyền tổ chức 3.312 vụ đấu tố, dẫn tới 162 vụ tử hình tại chỗ.
Các vùng duyên hải gần biên giới Trung Quốc (Quảng Ninh ngày nay) có nhiều khối dân cư gốc Hoa không chịu theo chế độ mới. Một số nhóm sắc tộc thiểu số, tôn giáo cũng có thái độ bất hợp tác.
Cải cách Ruộng đất vì thế còn có mục tiêu “thanh lọc và tổ chức lại xã hội” nhằm buộc toàn dân tuân thủ theo một ý thức hệ mới.
Ngoài các vụ bị giết là nhiều trường hợp người ta tự tử, và không khí đen tối chung cũng làm nhiều người hoảng loạn.
Có 12 nghìn người chết đói tại Bắc VN tính đến cuối 1954 vì thiên tai, lụt lội, và cả vì mùa màng thất thu do xáo trộn kinh tế xảy ra ở các vùng “giải phóng”, theo tài liệu ông Szanlontai trích dẫn.
Đến vụ lúa xuân năm 1955, nạn đói tiếp tục lan ra, ảnh hưởng xấu tới ít nhất 1 triệu dân, đa số ở các làng theo đạo Công giáo.
Cùng thời gian, theo lời ông Trường Chinh nói với các “đồng chí Đông Âu” vào cuối 1957, Đảng Lao động VN đã khai trừ 80 nghìn đảng viên, nhiều người trong quân đội, để trừng phạt họ về “xuất thân địa chủ”. Cũng chính ông ta thừa nhận, 60% bị xử lý “oan sai”.
Quân đội Bắc VN tự đánh vào hàng ngũ của họ bằng tiêu chuẩn lý lịch.
Vì số bản thân là công nhân, gốc công nhân, thợ mỏ chỉ chiếm 2,6 % trong 227 nghìn quân nhân nên đa số hoặc gốc tiểu tử sản hoặc nông dân.
Việc quy kết thành phần xấu cho gia đình họ, trên thực tế, đã tác động sâu rộng tới quân đội.
Vì lý do khách quan, Đảng Lao động VN không thực hiện được Cải cách Ruộng đất ở miền Nam, dù đã lên kế hoạch. Nhưng chính sách phân biệt giai cấp khiến họ ra lệnh cho hàng nghìn cán bộ bỏ vợ con “sai thành phần” ở lại để tập kết ra Bắc.
Với thanh niên Bắc VN tin theo chế độ, chừng 50 nghìn bị “khai trừ khỏi đoàn” vì lý lịch của cha mẹ.
Sau đợt “sửa sai” hàng chục nghìn người bị tù oan được thả về.
Thấp hơn TQ, cao hơn Đông ÂuTác giả người Mông Cổ nói làn sóng đàn áp, khủng bố ở Bắc Việt Nam cao hơn chương trình tương tự ở Đông Âu:
Hungary chỉ xử tử 500 tù nhân, gồm cả những người gây tội ác thời phát-xít;
Tiệp Khắc xử tử 178 người từ tháng 10/1948 đến cuối 1952;
Romania: 137 người (1945-1964);
Ba Lan chỉ có 20 người chết trong các năm 1950-53.
Đó là không kể 2500 bị thiệt mạng trong ‘nội chiến nhỏ’ ở Ba Lan giữa các nhóm vũ trang đối kháng chính quyền mới, với chiến dịch đầu diễn ra trước khi Thế Chiến kết thúc: 1944, chấm dứt năm 1948.
Nhưng con số của Bắc VN thấp hơn nhiều so với Trung Quốc dù Cải cách Ruộng đất được Trung Quốc khuyến khích, chỉ đạo.
Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ công bố tại Đại hội Đảng CSTQ lần thứ 7, tính đến tháng 2/1954, đã “tử hình 710 nghìn thành phần kẻ thù giai cấo” trong Cải cách Thổ địa.
Đó là chưa kể 2 triệu “thành phần bất hảo, trộm cướp” bị chế độ mới “tiêu diệt”. Nhiều triệu người ở CHND Trung Hoa bị đi tù vì lý lịch.
Các vụ trấn áp, bỏ tù và xử tử “người của chế độ cũ” tại Bắc Việt Nam làm dấy lên lo ngại rằng đó là hành động vi phạm Hiệp định Geneva, cấm trả thù những người từng làm cho Pháp.
Điều này khiến nay nội bộ Đảng Lao động VN có quan điểm bất đồng.
Các nhà ngoại giao Đông Âu ghi nhận được ý kiến từ nhiều nhân vật của chế độ về không khí chính trị chung.
Ví dụ Tổng thư ký đảng Dân chủ, ông Dương Đức Hiền nói với cán bộ Đại sứ quán Hungary Denes Felkai vào năm 1957 rằng “toàn bộ quan niệm chung về Cải cách Ruộng đất là sai”.
Đáng chú ý là ông Hiền cũng theo dõi tình hình bên ngoài và khoe rằng ông “nghe đài BBC, thấy cách giải thích của họ về biến động ở Hungary 1956 đáng tin hơn báo Đảng”.
Ngoài ra, các quan chức khác của Đảng Lao động và cả lãnh đạo đã nhận ra “sai lầm” trong Cải cách Ruộng đất.
Tuy thế, trên nguyên tắc, Đảng Lao động VN vẫn coi đây là một thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá II Trường đại học Nhân dân Việt Nam (8-12-1956) nêu rõ:
“Trong Cải cách Ruộng đất, cán bộ đã phạm những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng, cần phải kiên quyết sửa chữa. Nhưng không nên vì sai lầm khuyết điểm mà phủ nhận thành tích của cải cách ruộng đất tức là giai cấp phong kiến địa chủ đã bị đánh đổ, độ 8 triệu nông dân đã có ruộng cày. Đó là một thành tích không ai có thể chối cãi được. Cần nhận rõ như thế để không vì sai lầm khuyết điểm mà bi quan. Trái lại vẫn giữ vững lòng tin tưởng vào Đảng và Chính phủ.”
Di sản khác Đông Âu, khác cả Liên Xô, TQTheo ông Balazs Szalontai, chính quyền VNDCCH thừa nhận sai lầm “nhiều hơn Trung Quốc và Liên Xô muốn” trong Cải cách Ruộng đất.
Chính vì thế mà hệ luỵ về sau này lại có khác so với quá trình “tan băng” ở Đông Âu.
Do đã thừa nhận các sai trái bằng lời, Đảng Lao động Việt Nam đã không làm gì cụ thể để thay đổi cơ chế quyền lực.
Khác với ở Việt Nam, sửa sai ở Đông Âu diễn ra cùng quá trình “giải độc chủ nghĩa Stalin” và tại Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, và cả ở Mông Cổ cơ chế Đảng được tách ra khỏi Nhà nước.
Còn tại Việt Nam, cơ chế này, trên thực tế là Đảng “chỉ huy Chính phủ” (mà không chịu trách nhiệm trước Quốc hội), được duy trì tại Bắc VN sau Cải cách Ruộng, trên cả nước sau 1975 và còn tồn tại đến nay, đầu thế kỷ 21.
Ngược lại, việc “sửa sai” riêng một kiểu có ý nghĩa quan trọng với hệ thống chính trị ở Việt Nam: nó trở nên độc lập hơn các nước Đông Âu trong quan hệ với Liên Xô.
Theo BBC tìm hiểu, một bức hình người châu Âu luôn xuất hiện tại các vụ đấu tố kinh hoàng thời Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam.
Đó là ảnh thủ tướng Liên Xô Georgy Malenkov, người lên thay Stalin được chưa đầy hai năm: 1953-55.
Ảnh ông được treo cạnh ảnh Chủ tịch Mao và Chủ tịch Hồ Chí Minh “chứng kiến các cuộc đấu tố”.
Nhưng sau này ông Malenkov bị hạ bệ vì muốn “hoà hoãn, giảm sức mạnh quân sự” của quân đội Liên Xô, một gánh nặng kinh tế, theo quan điểm của ông.
Điều này gần như không được nói đến ở Việt Nam và người ta cũng tránh nhắc tới các nhân vật “cải cách ở Liên Xô”.
So với Trung Quốc thì quá trình “sửa sai” ở Bắc Việt Nam cũng nửa vời hơn nhiều.
Từ 1956, Trung Quốc chỉnh lại chính sách, cho phép con em gia đình thuộc thành phần “tư sản” được thi và vào học đại học.
Còn ở Việt Nam (và sau 1975 ở miền Nam- BBC), việc loại trừ nhiều công dân ra khỏi quyền tiếp cận giáo dục theo chủ nghĩa lý lịch về “thành phần giai cấp” vẫn tiếp tục lâu dài.
Cùng lúc, các thành phần bần cố nông được ưu tiên vào đại học, vào hệ thống kinh tế, chính trị, quân sự và tiếp tục lãnh đạo nước VN cho đến nhiều năm về sau.
Việc tự do hoá tại Liên Xô và Trung Quốc cùng thời gian xem ra không có tác động gì tương tự ở Bắc Việt Nam, theo bài “Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955 -56”.
So sánh với các đợt phản kháng rộng khắp như ở Đông Âu sau khi Stalin chết, tác giả của nghiên cứu trích lời một nhà quan sát Hungary ở Hà Nội khi đó, kết luận rằng nhờ “sửa sai kịp thời, cộng với trấn áp tiếp tục (subsequent repressive measures- hàm ý vụ Nhân văn Giai phẩm)” VNDCCH đã ngăn được “cơn bão nổ ra”.
Có thể vì các biện pháp không rốt ráo trong “sửa sai” di chứng của Cải cách Ruộng đất đến nay vẫn còn ở nước VN thống nhất.
Hồi tháng 9/2014 có cuộc triển lãm về Cải cách Ruộng đất tại Hà Nội nhưng sau vài hôm bị đóng cửa “do sự cố mất điện”.
Theo sử gia Dương Trung Quốc, triển lãm được thực hiện trong bối cảnh chưa có một tổng kết chính thức về cải cách ruộng đất nên “đương nhiên sẽ có hạn chế rất lớn” bất chấp nỗ lực của những người làm công tác bảo tàng.
Cho đến nay (03/02/2022) chưa có cuộc điều tra hình sự nào tại Việt Nam về các vụ giết người trong Cải cách Ruộng đất.