Hoàng Quang Thuận & dự án Nobel thơBài đăng trên Trương Duy Nhất, Một góc nhìn khác lúc 0:00 am 12 August 2012(Tiếp theo và hết) Hoàng Quang Thuận với những tập “thơ thần” và “dự án” Nobel của ông đã tạo nên một hiện tượng hiếm hoi có một không hai. Nhiều bàn cãi, chê thì thậm tệ mà khen cũng ngút trời.
Nhà thơ Trần Trương (tạp chí Thơ) cho rằng: “Tác giả bảo trong 4 giờ của một đêm, hình như có “tiền nhân” nhập vào hồn nên ông viết liền 121 bài thơ theo thể tứ tuyệt Đường luật. Tôi nghe xong thấy kinh hãi, và tự hỏi: đây là một thiên tài hay một người tâm thần vì ông đã quyết định gửi tập thơ “Thi vân Yên Tử” đi dự giải Nobel thế giới. Tôi đọc tập “Thi vân Yên Tử” và nghe qua nhiều phát ngôn của bạn đọc và các nhà thơ khác thì tập thơ này là tập thơ tả cảnh một cách trực giác nhưng vô hồn, một tập thơ của người chơi ngông, và chắc chắn là hầu hết các bài làm theo kiểu “Đường luật” thì đều sai luật” (nguồn:
báo Thanh Niên)
Nhà phê bình Nguyễn Hòa cũng khá nặng nề: “Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt, hoặc ghép hai bài tứ tuyệt thành một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật, thì ngay cái việc cố gắng ép vần cũng đã đưa lại ý từ khôi hài…”
Trong khi nhiều nhà phê bình gọi Hoàng Quang Thuận là “dòng thơ thiền”, thì Nguyễn Hòa và Nguyên An gọi đó là loại thơ “vịnh cảnh”. Nguyễn Hòa cảnh báo: “Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đa, mây trời, trăng treo, tiếng hạc… là bài thơ sẽ có chất thiền”.
Dù sao, vẫn thấy nhiều người ca bốc hơn chê. Hay tại thiên hạ vẫn quen nếp thấy “bất thường” tí là cười khẩy bỏ đi không thèm dây vào?
Hội nhà văn Việt Nam lại có vẻ như bắt được cái mạch thơ “thiên giáng” của Hoàng Quang Thuận. Chủ tịch hội, ông Hữu Thỉnh đã nhìn nhận thơ Hoàng Quang Thuận là “nghệ thuật cao nhất của thơ ca”. Đề cập tới bài “Am xưa”(Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc/Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm/Tiếng sáo thiền ca vui bất tận/Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng”, nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “Đây là bài thơ tiêu biểu cho hai bút pháp thiêng liêng hóa và đời thường hóa, nhân vật trong bài thơ này phải là người tu đắc đạo mới lấy trăng thay cho giường chiếu mà không sợ phàm tục, nhìn thấy trong trăng còn nhiều trăng nữa, tức là qua một vật mà nhìn thấy cái vô biên của vạn giới”
Một đại hội thảo về “hiện tượng” thơ Hoàng Quang Thuận đã được Hội nhà văn Việt Nam tổ chức một cách kỳ công, như thể là bước chuẩn bị… thành kính làm bệ đỡ cho khát vọng Nobel của ông Thuận.
Cùng với nhà thơ Chủ tịch hội Hữu Thỉnh, rất rất nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu tên tuổi đều hết lời ngợi ca và tỏ ra thích thú với hiện tượng “thần phật linh ứng nhập hồn” biến một lão ông không hề biết làm thơ thành một “nhà thơ” kỳ bí cho nền thơ Việt.
Nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên viết “Đối với Hoàng Quang Thuận, không có ma quỷ nào đưa lối dẫn đường cả, mà chỉ có thần, phật phù hộ độ trì từ khi ông phát tâm nguyện làm một đệ tử trung thành nơi cửa thiền, để rồi từ đấy những vần thơ thấm đẫm chất linh nghiệm báo ứng của tiền nhân hiện về”. Nhà phê bình Đặng Hiển lại cho rằng, nét đậm nhất của “Thi vân Yên Tử” là dấu tích của vua phật Trần Nhân Tông trên Yên Tử. Ông cũng nói thêm “nhưng đó là dấu tích trong lòng người, trong lòng thi nhân”. Nhà phê bình trẻ Thế Trung nhận xét, với hơn một trăm bài thơ, Hoàng Quang Thuận đã vẽ ra trước mắt người đọc một quang cảnh tuyệt mỹ của vùng núi mây Yên Tử, đồng thời được tìm về cội rễ của thiền phái Trúc Lâm. Thế Trung nói: “Thi vân Yên Tử” tập hợp những vần thơ vừa thanh tao, tĩnh lặng, vừa huyền diệu, xa vắng, mang nhiều hàm ý sâu xa, lại gần gũi với đời thường dễ dàng thấm sâu vào lòng người”. Đăng Lan lại cảm nhận: “Thi vân Yên Tử” – Bằng tâm hồn nhạy cảm, tứ thơ hiền hòa, thanh thoát, ám ảnh đậm chất biểu trưng nên tạo khởi rất nhanh, biến ảo trong cái thế giới liên tưởng trong tâm hồn người đọc. Nó là tiếng nói của cảnh giới xuất thế biểu hiện sự sâu lắng; nơi đây giáp mặt cả bốn bề tâm sự; lắng nghe, tỏ bày, đốn ngộ…”
Nhiều vị nhắc đến và đánh giá cao những câu thơ “thần” viết về Am Ngọa Vân của Hoàng Quang Thuận có tên “Am xưa” như nhà thơ Hữu Thỉnh, Trần Nhuận Minh, Hữu Việt, nhà phê bình Trần Thị Thanh, Ngô Hương Giang: Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc / Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm / Tiếng sáo thiền ca vui bất tận / Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng”.
Còn ông Dương Kỳ Anh, nhà thơ, cựu Tổng Biên tập báo Tiền Phong thì nhận xét đấy là “những câu thơ hay đến lạnh người”. (nguồn:
evan.vnexpress.net)
Thậm chí (mô Phật!), nghe nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã bình thơ của nhà “thiên giáng” Hoàng Quang Thuận rằng “đọc những bài thơ hay đượm gió ngàn cao, thấm nguồn suối núi, những bài thơ của một con người đầy tư tưởng nhân văn”. (nguồn:
báo điện tử đảng Cộng sản VN)
Còn tự ông Hoàng Quang Thuận nói về những bài thơ “tiên giáng” của mình thế nào?
Ông bảo “đó là tiền nhân mượn bút tôi viết thơ”. Phản ứng trước nhận xét của một số người cho rằng thơ ông chỉ là thể thơ du ký, loại tức cảnh sinh tình bình thường xuất hiện nhan nhản trong đời sống văn học hiện nay, ông Thuận nói: “Những bài thơ du ký là bài thơ làm về con người thực, địa danh thực do họ nhìn thấy, cảm thấy, còn tôi du ký trong một đêm sương gió, trong một đêm huyền ảo, du ký trong tâm tưởng. Nhiều địa danh xuất hiện trong thơ tôi ở Hoa Lư, Yên Tử sau đó các nhà sử học phải tìm lại, dân ở đó còn chả nhớ, phải tra lại mới ra, có chỗ phải dịch chữ Hán mới ra”.
Sau 2 sự kiện ly kỳ như ông kể, liệu “tiền nhân” có còn tiếp tục nhập hồn “mượn bút” ông viết thơ nữa không?
Ông Thuận bảo “Cái này không nói trước được. Phải có những thời khắc lịch sử nhất định, hòa hợp âm dương nhất định mới ra đời. Ví dụ như dịp tròn 700 năm vua Trần Nhân Tông về Yên Tử thì mới có “Thi vân Yên Tử”, dịp nghìn năm Thăng Long thì mới có “Hoa Lư thi tập”… (nguồn:
phongdiep.net)
Thú thật, tôi không thể tin nổi vì sao thơ lại có thể “nhập” được vào một khuôn tạng như ông Thuận. Nhớ lại buổi gặp tình cờ ở cà phê Trúc Lâm Viên, hình dung lại cái khuôn mặt, cách tiếp chuyện khiến cứ phải liên tưởng đến… Đinh La Thăng! Ông Thăng cũng có làm thơ. Thơ ông được phổ nhạc, nhưng không dự Nobel, mặc dù ông Thăng vẫn có một khát vọng… Nobel khác! (xem “
Đinh La Thăng và khát vọng Nobel”)
Cái tên Đinh La Thăng giờ nhiều người nghe là sợ. Sợ ổng lâu lâu nổi hứng nảy ra một “sáng kiến” thì dân tình méo mặt. Trước tôi chưa biết chưa nghe đến cái tên Hoàng Quang Thuận. Nhưng giờ đây ra đường, hễ cứ nghe ai nhắc đến Hoàng Quang Thuận là giật thót mình lui người lại.
Không biết bạn đọc đánh giá hiện tượng thơ “thiên giáng” và nhân vật Hoàng Quang Thuận ra sao, chứ tôi hoảng quá. Hoảng còn hơn cả khi nghe ông Hữu Thỉnh tuyên bố tổ chức đại lễ thơ, hoảng hơn cả khi nghe có ông đại biểu quốc hội đòi phải ban hành “luật thơ”, hoảng hơn cả khi nghe ai đó đề xướng ý tưởng đòi UNESCO công nhận Việt Nam là… cường quốc thơ!
Thương thay cái dân tộc của tôi. Một dân tộc mà ai ai cũng làm thơ, toàn dân làm thơ, toàn dân thành nhà thơ. Có lẽ đây chính là một biểu hiện bất thường trong tâm sinh lý và tư duy của người Việt. Vì thế, trong hàng triệu triệu nhà thơ, bỗng hôm nào đó một vài vị bỗng dưng được rắn-phụng-chuột-mèo-chó-chim nhập hồn, hóa thành thần nhập thiên giáng như “hiện tượng” thơ Hoàng Quang Thuận cũng là điều dễ hiểu.
Chỉ có điều cứ nghe nhắc là phản xạ giật thót mình lui người lại như phải tránh một cái điều gì đó rất vô hình, vớ vẩn, mông lung.