97
THỬ TÌM HIỂU THẾ NÀO LÀ 1 BÀI THƠ HAY-[3]Thí dụ khác: Bốn câu Thơ dịch của người viết bài này:
Xuân sang ngoạn cảnh xem hoa
Hè về hóng mát tà tà ao sen
Vào Thu rượu cúc êm êm
Ðông coi tuyết phủ, nối vần Nàng Thơ
(TÐN)
Tất cả đều hiệp vận, ngoại trừ “êm” và “vần” , nhưng đúng ý nghĩa. Giả sử thay hai chữ “nối vần” bằng hai chữ “êm đềm” cho vần với câu trên thì trước nhất bị điệp ngữ êm, thứ hai “êm đềm Nàng Thơ” lại có nghĩa khác, không nói được cái thú ngâm Thơ, sáng tác Thơ của tác giả. (Ðông ngâm bạch tuyết thi). Bài thơ trên dịch từ bài thơ chữ Hán:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Ðông ngâm bạch tuyết thi
Ý nghĩa của một câu Thơ, một bài Thơ là quan trọng như vậy.
Một bài Thơ hay, một câu Thơ hay rất dễ nhìn ra y như một bông hoa đẹp. Ðâu cần phải phân tích cánh hoa làm sao, đài hoa, sắc hoa thế nào, ta mới biết là bông hoa đẹp.
Tiền nhân xưa sáng tác Thơ, vào hội Thơ, ngâm Thơ như một cái thú của đời người, nhất là khi về già. Không gì bằng có bạn Thơ, có giấy bút, có rượu, dù chỉ thanh đạm, cùng làm Thơ, cùng bàn luận về văn chương, về những hào khí của người xưa. Tổ tiên ta dùng Thơ để nói về mình, về người, dạy đời, mỉa mai những thói rởm của đời, tôn vinh những thú vui thanh quí, cao nhã “an bần lạc đạo” mà Thơ chính là một dụng cụ sắc bén và đắc dụng nhất cho các mục tiêu đó. Ta thử đọc lại một bài thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
THƠ NHÀN
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!
Bài sau đây của thi hào Tản Ðà Nguyễn khắc Hiếu, làm cho vở chèo Thiên thai. Ðây là cảnh hai tiên nữ tiễn Lưu Thần, Nguyễn Triệu về trần:
TỐNG BIỆT
Lá đào rơi rằc lối Thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Ðá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động,
Ðầu non,
Ðường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!
Dù là một huyền thoại, người đọc Thơ không khỏi bùi ngùi cho cuộc chia tay giữa người tiên, kẻ tục sau một thời gian ngắn chung sống. Chữ dùng rất thanh thoát thích hợp với cảnh tiên: lá đào, Thiên thai, đá mòn, rêu nhạt... cái hạc, cửa động, đầu non ... và kết thúc bằng ánh trăng mơ hồ huyền ảo muôn đời soi bóng. Một bài Thơ tuyệt đẹp. Từ đó chúng ta suy ra Thơ là thơ thẩn, là mơ hồ, đôi khi xa rời thực tế. Như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây...
Thơ là kết tụ của tình yêu, tình yêu nam nữ, vợ chồng, tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người. Thơ là tự do, phóng khoáng, là sắc sắc không không của nhà Phật, là Vô vi, Thiền quán như Lão tử thực hành và đôi khi cũng cần phải yếm thế, chán cái đời sống đầy tục luỵ này như Cao bá Quát, hay châm biếm những thói rởm, tật xấu của người đời như Trần tế Xương... Thơ thực quá, thô sơ quá, thơ không hay, không thoát. Nhiều bài không thể gọi được là Thơ mà chỉ là những bài vè dân quê truyền tụng ở nông thôn. Thơ lục bát tuy vậy rất khó làm, dễ trở thành bài vè ít giá trị. Làm được Thơ lục bát như truyện Kiều là một tuyệt tác.
Có nhiều bạn đọc viết thư cho người viết hỏi họ có thể sáng tác Thơ, có thể thành nhà thơ được không? Tiện đây, xin trả lời chung như thế này:
Ai cũng có thể sáng tác và trở thành thi sĩ, nếu:
Yêu thơ, đọc nhiều thơ, học thuộc thơ kiểu mẫu, thơ hay, chất Thơ ngấm vào trí óc giống như chất bổ ngấm vào thân thể, chúng giúp cho nhà thơ rất nhiều. Tuy vậy xưa kia đã có những người thuộc lòng cả cuốn truyện Kiều, cả cuốn Nhị độ Mai hay Bích câu kỳ ngộ nhưng vẫn không thể sáng tác Thơ.
Có thiên khiếu về Thơ. Có sự rung cảm, xúc động sâu xa như sợi dây đàn hoặc cái sáo trong không gian như đã nói ở trên.
Có vốn liếng nhiều về từ ngữ để sử dụng khi cần diễn dịch một ý tưởng thành lời nói, chữ viết, nhất là thành Thơ. Thơ tiếng Việt rất cần danh từ Hán - Việt.
Nắm vững các niêm, luật (bằng, trắc, vần) và các thể Thơ. Dùng chúng như những cái chìa khoá dẫn đường vào việc sáng tác Thơ.
Tuân theo các niêm, luật đó ngoại trừ Thơ tự do. Tuy nhiên, dù là Thơ tự do, nó vẫn không phải văn xuôi, vẫn cần một sự sắp xếp ý, lời và vẫn cần vần khi có thể cho câu thơ nhịp nhàng, cân đối.
Ðể bạn đọc hiểu thêm, xin nói như thế này. Có những nhà văn viết văn khá hay, nổi tiếng nhưng chính những nhà văn đó nói họ không thể sáng tác Thơ mặc dù chữ nghĩa đầy đầu.
Ngược lại, có những thi sĩ không thể viết truyện, viết bình luận, nghĩa là văn xuôi.
Bởi như đã nói, tuy cùng là văn chương nhưng chúng hoàn toàn khác biệt về phương diện sáng tác. Lại cũng khác biệt về phương diện thưởng thức. Cũng cần nói thêm, khi đã không có trình độ thưởng thức thì bài nào cũng như bài nào, vàng thau lẫn lộn, bị đánh giá như nhau. Trình độ thưởng thức chính là những kiến thức thu thập được trong lãnh vực Thơ, nó chính là những bước căn bản đầu tiên đưa đến sự sáng tác Thơ nếu có hứng sáng tác.
Luận bàn về Thơ, chục pho sách cũng không đủ nói hết. Ðể kết thúc bài mạn đàm thiếu sót về Thơ này, xin mời quí bạn đọc một bài Thơ lục bát của tác giả bài này, bài “Chiều Ba Mươi”, thơ vui Tết và bài “Nói với Bút” cả hai đã đăng trên nhiều báo từ năm 1978 và 1992. Bài sau tác giả mượn cây bút để nói lên nỗi lòng của mình.
CHIỀU BA MƯƠI
Vòng tay nhật nguyệt luân hồi
Đem Xuân trở lại nét môi diễm kiều
Lược gương từ giã cô liêu
Nâng niu mái tóc đây chiều ba mươi
Trẻ thơ tươi tắn nụ cười
Ðầu xanh, đầu bạc người người vui lây
Gió ngoài song, lạnh hiên tây
Chiều Xuân thi hứng lúc đầy, lúc vơi
Trong bình đào thắm, mai tươi
Nhìn em muốn hỏi Xuân cười lúc nao?
Giang tay bồng nhẹ Xuân vào
Môi son má phấn: Mai, Ðào hay em?
NÓI VỚI BÚT
Bút ơi ! Yêu bút thiết tha
Bút theo ta chạy ta bà khắp nơi
Mùa Xuân rừng núi rong chơi
Miền quê, thành thị khắp nơi ra vào
Hạ về bút lắm xôn xao
Biển giông bão nổi ào ào chớm Thu
Mùa Ðông bút có sương mù
Có đôi chim gáy gật gù sớm mai
Ðường đời lắm nẻo chông gai
Bút cùng ta luận một vài điều hay
Cường quyền bút chẳng run tay
Bút mong Dân tộc những ngày sáng tươi
Chán đời vẫn hé môi cười
Ta cùng với bút một đời bên nhau
Vì ta bút trải tình sâu
Vì ta nên bút giãi dầu nắng mưa
Lòng ta bút hiểu hay chưa ?
Thơ là tuyệt đỉnh, tuyệt đích của văn chương. Sáng tác Thơ khó khăn hơn chơi Lan, chơi Bonsai, đánh cờ tướng, uống trà v.v... vì nghề Thơ cũng lắm công phu, không phải chỉ thích Thơ rồi nhảy vào làm Thơ mà Thơ hay được. Tuy nhiên, nếu đã có hồn Thơ tức dễ xúc động trước những biến đổi, nghịch cảnh của cuộc đời, rồi trau dồi kĩ năng về Thơ, làm nhiều bài Thơ, nghe ý kiến trung thực của bạn đọc và thân hữu, nhất là những người sành Thơ thì việc sáng tác Thơ cũng tiến bộ vậy.
Xuân Vũ Trần Ðình Ngọc