Trang trong tổng số 16 trang (155 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [13] [14] [15] [16]

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Triển lãm cải cách ruộng đất tạm đóng cửa
trước nông dân chống cướp đất
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj9hlYho4iYReM7niG01hB-vHxrKNhR-MYUvh9KK4Icte9AdlSU4jNg35SKL_jegCQccS5iHKFE47PnmY2Fqi7iAgu66JPkikX2qBtJPvCFQeI6rpbQx1D9fP9ZKfEUUtCbir05x6O4cxcaDEjEkrtRhT06-UMqMphKH8ALdApfMzl_67K-WZcHVmauodUA/w640-h382/0-2.PNG


Cuộc «Trưng bày chuyên đề về Cải cách ruộng đất 1946-1957» được tổ chức tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội được nhiều người chú ý vì lần đầu tiên đề cập đến đề tài lịch sử nhạy cảm này. Khai mạc từ ngày 08/09/2014, theo như thông tin trên các báo thì triển lãm sẽ kéo dài cho đến hết năm nay. Tuy nhiên sáng nay 11/9/2014 khi những người nông dân Dương Nội vốn biểu tình đòi đất suốt một tháng qua muốn vào tham quan thì triển lãm lại cho biết tạm đóng cửa.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Đóng cửa triển lãm “Cải cách ruộng đất” vô thời hạn
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh06UWAVym_p71WdYoefB72SHK5N3Se-g-fPGA9u4iucCiRBxxX7lm7iaEhcST1mBKjOZ7vk3-UeAHJa2_mT212P9Ydxh0VMQYXBZ8sktpMLXVmNqEOfrGpQSBiAhz0Ui6lR05_4eI0VXk0KjdVoS85jkOMfTl2IVfIBSuIGaTY2kNwRICELK8aIOr4osx8/w640-h564/0-2.PNG


Cuộc triển làm Cải Cách Ruộng Đất được mở ra từ sáng ngày 8 tháng 9 và được nói sẽ kéo dài đến cuối năm nay; thế nhưng hôm nay ngày 12/09/2014 Bộ Văn hoá – Thể thao và du lịch, Bảo tàng lịch sử tại Hà Nội đã ra thông báo đóng cửa.

Lo ngại dân oan xem triển lãm?
Lý do đóng cửa được thông báo là “Phòng trưng bày chuyên đề cải cách ruộng đất 1946 – 1957” đang gặp sự cố điện, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tạm thời đóng cửa để sửa chữa và khắc phục.

Trong khi đó một nhân viên của bảo tàng khi được hỏi thì lại nói:

“Hiện giờ đã đóng cửa, tôi chưa biết được khi nào mở cửa, vì chỉ đạo ở trên xuống thứ trưởng chỉ đạo xuống mà cho nên chưa biết đâu.”

Blogger Nguyễn Hữu Vinh tại Hà Nội đã có một buổi tham quan phòng trưng bày hiện vật CCRĐ cho chúng tôi biết, ông không lấy gì làm lạ khi phòng triển lãm CCRĐ đóng cửa một cách bất ngờ với những lý do mà ông nêu ra như sau:

“Mặc dù báo chí bảo tàng đầu tiên thông báo rõ ràng là sẽ mở kéo dài đến hết năm 2014, thế mà có được mấy ngày từ hôm mùng 09 đến 11 mới được có 3 ngày thì là bảo tàng đã đóng cửa chiều qua. Tôi cho rằng cái việc đóng cửa bảo tàng này là không có gì là lạ, bởi vì những người tổ chức và cái đảng này đã không lường trước được sự chú ý của người dân, và phản ứng của người dân đối với việc triển lãm ở đây. Việc triển lãm tổ chức ở đây, và nó khơi dậy những ký ức sống động, buồn tủi, đau đớn và những tội ác đã gây ra cho dân tộc, cho đất nước này ở thời kỳ CCRĐ một cách sôi động và rõ ràng đến như vậy.”

Thật ra là rất bình thường, tôi thấy là chiều hôm qua đã có tin đóng rồi, bởi vì là thấy có một số, nghe nói rằng, nghe bạn bè nói nhau rằng có rất nhiều những người, những người bên Dương Nội và những bà con mất đất sang để tụ tập trước cửa, đấy cũng là có thể có khi lý do trực tiếp.

Ông Châu Đoàn
Ông Châu Đoàn vừa là phóng viên ảnh tự do, vừa là nhà văn, đang làm việc và sinh sống tại Hà Nội nói rằng, lý do đóng cửa vì sự cố kỹ thụât như mất điện, bảo trì…nêu ra như thế là không thuyết phục; đó chỉ là cái cớ. Theo ông này thì trong xã hội Việt Nam hiện nay việc làm như thế của chính quyền là chuyện bình thường:

“Có những sự việc họ không thể nói được ra lý do thật, chứ còn lý do kỹ thuật thì tất cả cái đấy chỉ là cái cớ xin lỗi để cho để có thứ để mà trả lời thôi vì ai cũng hiểu. Bởi cái phòng triễn làm ấy nó rất đơn sơ, có máy móc gì ghê gớm đâu mà nói về vấn đề kỹ thuật. Thật ra là rất bình thường, tôi thấy là chiều hôm qua đã có tin đóng rồi, bởi vì là thấy có một số, nghe nói rằng, nghe bạn bè nói nhau rằng có rất nhiều những người, những người bên Dương Nội và những bà con mất đất sang để tụ tập trước cửa, đấy cũng là có thể có khi lý do trực tiếp.”

Đúng như lời của ông Châu Đoàn thì vào ngày 11 tháng 9 vừa qua, những người dân oan mất đất Dương Nội đã đến Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và muốn vào xem triển lãm Cải cách Ruộng đất. Thế nhưng lực lượng chức năng đã ngăn chặn họ. Đầu tiên yêu cầu họ phải cởi áo có những dòng chữ mang nội dung dân khiếu kiện đất đai và đòi người bị bắt oan ra. Dù một số người dân Dương Nội làm theo yêu cầu đó; nhưng rồi lực lượng chức năng lấy lý do vì sự cố ánh sáng nên từ chối không cho họ vào xem và đóng cửa triển lãm.

Bất lợi không lường từ cuộc triển lãm
Theo cả hai người blogger Nguyễn Hữu Vinh và nhà văn Châu Đoàn thì chính quyền Hà Nội đã không lường trước được những phản ứng bất lợi khi cho mở cuộc triển lãm:

“Nói thật, nếu mà nói về vấn đề kỹ thuật thì với một diện tích như vậy không phải là quá lớn, họ hoàn toàn có thể chuyển sang một nơi khác để triển lãm. Nhưng mà vấn đề là khi mà mở ra cuộc triển lãm như vậy, tôi chưa nói về chất lượng nội dung, thế nhưng mà nó đã tạo ra một cái cối cho xã hội, công luận quan tâm đến sự kiện lịch sử, nó khơi dậy rất nhiều cảm xúc, suy nghĩ có thể nói là rất là nóng bỏng trong mấy ngày qua thì cái đấy những người đứng ra tổ chức triển lãm, những người cho phép, họ không đủ khả năng đối phó với tình huống đó.”

Hầu hết những người sau khi đến xem ra về đều cho rằng cuộc triển lãm trưng bày những hình ảnh và hiện vật bị phân tích là làm giả. Một điểm nữa là sự so sách giữa tầng lớp bị cho là địa chủ và dân nghèo trong thời kỳ thập niên 50 của thế kỷ trước và giữa những quan chức và người dân mất đất hiện nay

Đối với khả năng triển lãm Cải cách ruộng đất có thể mở cửa trở lại, thì blogger Nguyễn Hữu Vinh nhận định:

“Bị trục trặc âm thanh, cái nọ cái kia để dừng lại triển lãm, nhưng tôi thì không tin những điều đó, bởi vì những điều lý do, dối trá ấy thì tôi gặp thường xuyên nhơn nhản trước mặt tôi như vậy, tôi tin rằng triển lãm đã bị đóng cửa và tôi cũng tin rằng sẽ không được mở lại trong thời gian tới đây.”

Còn nhà Văn Châu Đoàn thì có ý kiến:

“Tôi sợ rằng, trong một tương lai gần thì khó. Bởi vì tôi không hiểu mục đích thật người ta mở ra để làm gì? Bởi vì làm thì phải thoả thích, không có một cái tự do để làm một cách thẳng thắn, đầy đủ được, nhưng làm chỉ một chừng thôi thì không biết được, nhưng về mặt hiệu quả xã hội thì tôi đánh giá rất tốt. Cũng có thể họ sẽ mở lại, và họ có thể họp bàn bạc trong đầu vào cái cách để ứng phó làm sao? Cho dư luận người ta chấp nhận được và nó không gây ra sự bất ổn nào. Tôi nghĩ chuyện ấy vẫn là bình thường.”

Blogger Nguyễn Hữu Vinh tỏ ra gay gắt khi cho rằng đối với những quốc gia tự do thì việc đóng cửa như vậy là không bình thường, không hợp lý, nhưng đối với những quốc chính quyền độc tài như Việt Nam thì là bình thường:

“Việc đó không hợp lý, ở những người khác, những nơi khác, ở đất nước khác, nhưng nó rất hợp lý ở một chế độ độc tài khi mà đảng muốn như thế thì điều đó phải được làm, dù vô lý, đi ngược lại luật pháp, vô luật pháp, vô đạo đức, vô luân thì bất cứ một cái gì.”

Triển lãm “Cải cách ruộng đất” tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam sau khi mở cửa đã tạo nên một làn sóng dư luận mạnh mẽ. Hầu hết những người sau khi đến xem ra về đều cho rằng cuộc triển lãm trưng bày những hình ảnh và hiện vật bị phân tích là làm giả. Một điểm nữa là sự so sách giữa tầng lớp bị cho là địa chủ và dân nghèo trong thời kỳ thập niên 50 của thế kỷ trước và giữa những quan chức và người dân mất đất hiện nay.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Tại sao phải vội vã đóng cửa Triển lãm về Cải cách ruộng đất?
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTZy4WjtqFTEDIhH97N2UERbtYgK6O87s9iHP8SKAFR_l9UqLVcFN6K_jsQ8dXbo4j9Mhj7-N8UlTIZ62F3cRteJQyWe1tPgN1ofaDZwpnGqppPf_Wvh2kgYb4EoZoEX5FtDOt0dH3tZKGLYJT3FO1fvbFHZ0WHf3QcyVY85yuvIQODdSr6-zcP0LcZrwn/w640-h360/0-1.PNG


Những ngày này, vào cái thời điểm sau lễ kỷ niệm 69 năm Quốc khánh, một cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất (CCRĐ) được tổ chức tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, sự xuất hiện của bản Google Docs cuốn Đèn cù của tác giả Trần Đĩnh trên mạng internet cũng là một tác nhân khiến chủ đề về CCRĐ càng nóng thêm.

Chủ đề này đang hâm nóng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội, ở đâu đâu cũng thấy người ta nói về chủ đề Cải cách ruộng đất (CCRĐ).

Đôi nét về CCRĐ
Chương trình CCRĐ với mục đích xoá bỏ giàu nghèo - với chủ trương “San bằng giai cấp hoá yên vui” là một bước trong tiến trình tiến lên CNXH của Đảng CSVN tổ chức và thực hiện.
CCRD với khẩu hiệu “Người Cày Có Ruộng” là chương trình bắt nguồn từ đường lối chính sách của Đảng CS Trung quốc, nhằm tiêu diệt các thành phần bóc lột, phản quốc, phản động như địa chủ, cường hào, ác bá v.v.... Vào những năm 1953–1956 ở miền Bắc Việt nam, khi ấy Đảng CSVN, dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Trung quốc đã tổ chức thực hiện việc CCRĐ một cách máy móc, dập khuôn và tràn lan. Thông qua những màn đấu tố phần lớn là oan và sai đối tượng nhằm để đạt chỉ tiêu của cố vấn Trung quốc giao cho. Với những phiên Toà kiểu vô luật pháp của một nhóm người trong Đội Cải cách, có thể tuỳ tiện tuyên án để tịch thu tài sản, đất đai của những người này để chia cho bần nông, cố nông. Thậm chí, các bản án tử hình với số lượng hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người bị quy kết địa chủ đã bị bắn bỏ ngay lập tức.

Việc thực hiện CCRĐ ở miền Bắc Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả vô cùng to lớn cho xã hội thời ấy. Đã có rất nhiều người bị đấu tố oan, sai. CCRĐ được cho là không chỉ giết dã man nhiều người vô tội. Mà tội ác lớn nhất của nó là nó chà đạp lên luân thường đạo lý, phá hoại toàn bộ nền tảng đạo đức xã hội của người Việt được xây dựng qua biết bao thế hệ. Kể từ đó, đạo đức xã hội đã bị băng hoại, tình người bị chà đạp; những kẻ trắng trợn đổi trắng thay đen, ngậm máu phun người giành được quyền hành và thao túng, chi phối toàn bộ cuộc sống khiến người lương thiện thì chịu oan khuất, thua thiệt, kẻ bất lương trở thành các vĩ nhân bất khả xâm phạm và còn là tấm gương cho toàn xã hội.

Theo thống kê, tổng số người bị đưa vào danh sách đấu tố vào khoảng 172.000 người; trong đó số người bị oan sai tới khoảng 123.000 người. Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây nên biết bao sự oan sai cho những người nông dân hiền lành và vô tội, nhiều ngàn gia đình tan cửa nát nhà. Mà làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam trong năm 1954 để chạy trốn Cộng sản là bằng chứng cho thấy hậu quả của những sai lầm này.

Chính điều đó đã làm Đảng CSVN bị mất uy tín đối với nhiều người dân. Trước những sai lầm nghiêm trọng này, tháng 9 năm 1956, ông Trường Chinh đã buộc phải từ chức Tổng Bí thư và lãnh đạo Đảng CSVN cách chức Bộ Chính trị của ông Hoàng Quốc Việt, cũng như cách chức Uỷ viên TW Đảng của ông Hồ Viết Thắng. Đến tháng 10 năm 1956, ông Võ Nguyên Giáp, thay mặt ông Hồ Chí Minh đã phải thừa nhận sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai.

Không ngoa, nếu như ai đó nói rằng CCRĐ những năm 1953–1956 ở miền Bắc là một trong những tội ác chống nhân loại của Đảng CSVN và cần được đưa ra xét xử ở Toà án Quốc tế.

Mục đích mở triển lãm bị phá sản
Vào ngày 8.9.2014 vừa qua, Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội khai trương một triển lãm về cải cách ruộng đất, mang tên “Cải cách ruộng đất 1946-1957”. Theo đánh giá, đây là lần đầu tiên Việt Nam có triển lãm về sự kiện lịch sử được coi là một trong những thất bại trầm trọng của Đảng CSVN.

Theo báo chí, ông Nguyễn Văn Cường - Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, cho biết mục đích của triển lãm là “Muốn đưa đến cho công chúng một cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn, những thành tựu trong giai đoạn đó, cũng có những bước đi sai lầm trong việc tổ chức thực hiện ở cơ sở thì cũng đã có những chỉ đạo từ trung ương trong việc chấn chỉnh khắc phục sai lầm, oan sai.”. Tuy nhiên khi được hỏi về con số người bị xử tử trong cải cách ruộng đất có được nêu ra tại triển lãm này hay không, thì ông Nguyễn Văn Cường cho rằng theo ông quan trọng nhất là thành tựu “người cày có ruộng”, còn những mất mát thì trong những sai lầm và bài học kinh nghiệm Đảng đã có đánh giá và sửa sai.

Điều đó cho thấy cũng gần đúng như dư luận đánh giá, đó là việc nhà nước tổ chức triển lãm về CCRĐ chỉ nhằm mục đích kể công ơn của Đảng CSVN đối với nông dân từ trước đến nay. Nhưng vô tình vấn đề CCRĐ, vốn là một vết thương, một dấu ấn thất bại cay đắng của Đảng CSVN đã bị đào xới lại sẽ tạo ra các phản ứng bất lợi là điều mà họ không lường hết trước được. Đáng tiếc hơn, giữa lúc vấn nạn dân oan mất đất, mất ruộng đang ở giai đoạn cao trào, thì lẽ ra khi động chạm tới vấn đề CCRĐ trong lúc này, thì phía chính quyền cần phải đả động tới cả hai mặt của một vấn đề, cả vấn đề tích cực, những mặt hạn chế và những sai lầm của Đảng CSVN trong vấn đề đất đai để làm dịu lòng những người dân oan. Nhưng họ quên mất rằng, trong bối cảnh mặt bằng dân trí ngày càng được nâng cao, những vấn đề mất mát, những sai lầm khi nhà nước càng muốn dấu thì người dân càng quan tâm tìm hiểu hơn và điều này sẽ dễ tạo nên phản ứng mạnh mẽ của dân chúng. Và cuối cùng họ đã không làm như thế.

Có ý kiến cho rằng việc nhà nước tổ chức triển lãm về CCRĐ để đối phó với làn sóng đọc và chia sẻ tác phẩm Đèn cù của Trần Đĩnh thì thiết nghĩ rằng không có cơ sở. Vì để tổ chức một cuộc triển lãm về chủ đề này thì người ta phải chuẩn bị trước ít nhất là một năm, thậm chí là nhiều năm. Việc hai sự kiện này xảy ra trong cùng gần một thời điểm đó chỉ là sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên.

Sức mạnh của truyền thông xã hội và dân oan
Vào chiều tối 11.9.2014 trên mạng facebook đã có tin nói rằng cuộc triển lãm về CCRD đã tạm không tiếp đón người xem chiều nay đóng cửa, theo đó tin cho biết “Đại diện Ban Tuyên giáo TW và Bộ VHTTDL cùng Bảo tàng tìm lý do hợp lý để đóng cửa. Lệnh cho làm ngay một triển lãm khác, cổ vật để thay thế.”. Đến sáng ngày 12.9 thì được biết tấm pano quảng cáo về cuộc triển lãm treo trước cửa Viện Bảo tàng Lịch sử đã được hạ xuống, dù rằng trước đó cuộc triển lãm này dự kiến sẽ kéo dài đến tháng 12.2014. Một cuộc triển lãm vừa mở cửa vẻn vẹn có 4 ngày đã phải gấp rút đóng cửa với những lý do không thuyết phục càng gây sự tò mò của mọi người.

Vậy lý do gì và nguyên nhân vì sao chính quyền đã vội vã huỷ cuộc triển lãm này?

Hiện nay ở Việt nam, thế hệ những người ở lứa tuổi 40 trở xuống hầu như rất ít người có hiểu biết về vấn đề CCRĐ. Những người có thể biết và biết rõ về CCRĐ là do họ tự tìm hiểu trên mạng internet, việc giáo dục và tuyên truyền về vấn đề CCRĐ từ trước đến nay ở VN là hết sức sơ sài và hầu như nhà nước không nói gì đến mặt trái của nó. Tuy vậy, để tìm kiếm các thông tin đa chiều về vấn đề CCRĐ trên mạng internet bây giờ là điều hết sức dễ dàng, với vô vàn thông tin đa dạng. Triển lãm về CCRĐ được tuyên truyền trên truyền thông nhà nước và các mạng xã hội đã vô tình đã kích thích sự tò mò của nhiều người và họ đã bỏ thời gian để tìm kiếm sự thật.

Những ngày này, trên các mạng xã hội vấn đề được người ta bàn luận nhiều nhất là vấn đề CCRD, người ta chia sẻ vô vàn các thông tin - chủ yếu là mặt trái của vấn đề. Số lượng người quan tâm và đến xem đến cuộc triển lãm này cũng khá nhiều, không những thế tại nơi triển lãm người ta có thể bàn luận, chia sẻ quan điểm cá nhân thậm chí viết những suy nghĩ của họ trong sổ lưu. Những ý kiến ghi trong cuốn sổ này khá đa dạng, thậm chí có những ý kiến rất gay gắt. Đây cũng là một điều bất lợi không đáng có mà chính quyền không lường được hết. Đồng thời đây cũng là hệ quả của lối tuyên truyền một chiều, đó là chỉ tuyên truyền những cái tốt vốn rất hiếm hoi trong sự thất bại trầm trọng của công tác CCRD mà không mảy may đề cập tới những sai lầm cần phải được sửa đổi.

Chỉ trong mấy ngày đầu, nhiều biểu hiện cho thấy chính quyền đã sớm phát hiện ra việc làm của họ đã phản tác dụng, trái những gì họ đã dự kiến vì đã tạo dư luận gây xôn xao trong dân chúng. Điều này chứng tỏ chính quyền đã theo dõi diễn biến trên mạng xã hội khá chặt chẽ. Vì họ biết rằng, việc cuộc triển lãm CCRĐ đã và đang khơi dậy những ký ức đau xót và những tội ác mà Đảng CSVN đã gây ra cho dân tộc và đất nước này ở thời kỳ CCRĐ. Những cái đó đã và đang trở thành một trào lưu xã hội quan tâm ở mức cao, đã đẩy chính quyền vào tình thế không biết sẽ còn có những diễn biến gì tiếp sau đó. Và cũng cần phản nói thêm: với đội ngũ tham mưu rất kém, đã không lường hết được phản ứng ngược lại của dư luận xã hội, khi đưa chủ đề hết sức nhạy cảm vốn đã được dấu kín nhiều chục năm.

Việc bà con dân oan Dương Nội mặc áo với các dòng chữ đòi nhân quyền đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội trưa ngày 11.9.2014 để xem triển lãm Cải cách ruộng đất là lý do đi đến việc chính quyền ra quyết định đóng cửa triển lãm. Vì họ tin rằng kế tiếp dân oan Dương nội sẽ có hàng nghìn dân oan trên khắp cả nước sẽ đổ về và biến nơi đây thành nơi tụ tập của lực lượng dân oan. Đây là quyết định nhằm “dập lửa ngay từ đầu gió” được đưa ra trong sự lo ngại của phía chính quyền.

Điều đó phần nào cho thấy sức mạnh của truyền thông trên mạng xã hội được tận dụng cùng với sự đoàn kết của dân oan Dương nội, điều này đã gây ra áp lực không nhỏ lên chính quyền, và đây là những lý do để trả lời câu hỏi “Tại sao nhà nước phải vội vã đóng cửa?”

Những bài học kinh nghiệm
Nếu ai có ý định so sánh địa chủ và tư sản ngày xưa với các “đầy tớ” của nhân dân hay các đại gia thời nay, thì không có gì đáng để so sánh, vì sự khập khiễng của nó. Ngày xưa việc tích luỹ ruộng đất và của cải của địa chủ hay tư sản đều thông qua việc kinh doanh buôn bán hoặc thậm chí họ còn trực tiếp tham gia lao động như người làm công. Nói chung, những của cải hay tiền bạc mà họ tích cóp được là do công việc hầu hết là chân chính và lương thiện, chứ không phải là những của cải do ăn cướp được như những “đầy tớ” của nhân dân hay các đại gia thời nay.

Nếu mục đích ban đầu của cuộc triển lãm, chính quyền hy vọng rằng để cho người dân thấy sự khác nhau hay nói cách khác là khoảng cách giữa cuộc sống của giai cấp địa chủ và những người bần cố nông trong quá khứ như thế nào. Mà triển lãm này bỗng trở thành tiền đề cho mọi người ta cảm thấy cần suy nghĩ nghiêm túc về khoảng cách giàu nghèo giữa các quan chức đảng viên với những người nghèo khổ hiện nay. Thử hỏi cái khoảng cách đó ngày nay gấp bao nhiêu lần những cái người ta thấy ở ngày xưa qua cuộc triển lãm? Qua đó số đông mọi người đã buộc phải đặt dấu hỏi nghi ngờ vì sự giàu có của các quan chức.

Thông qua vấn đề CCRĐ, thì sự minh bạch về thông tin cũng sẽ giúp giải quyết được rất nhiều vấn đề tồn đọng, những oan khúc chưa có lời giải đáp. Vấn đề then chốt là đúng sai phải rõ ràng, kẻ làm sai phải bị nghiêm trị, người bị oan sai phải được xin lỗi và bồi thường mọi mặt, kể cả danh dự của bản thân họ và gia đình. Chứ không thể nhận sai lầm và tuyên bố sửa sai bằng miệng rồi bỏ đấy như Đảng CSVN đã từng làm trong vấn đề CCRĐ từ trước đến nay. Nếu như việc này được xử lý đúng và phù hợp thì có lẽ Đảng CSVN cũng sẽ không mất uy tín trầm trọng như bây giờ.

Nếu chính quyền biết việc đưa thông tin đa chiều, cả mặt xấu lẫn mặt tốt vào trong cuộc triển lãm một cách khéo léo và phù hợp cũng là thể hiện sự tôn trọng đối với người xem. Điều đó có tác dụng xoa dịu lòng dân, vì trong kỷ nguyên thông tin như hiện nay thì không ai, không có bất kỳ thế lực nào có thể che dấu được người dân.

Có không ít người, mà cá biệt có người là con địa chủ bị bắn oan trong thời CCRĐ, gần đây đã từng tuyên bố “Nếu bây giờ có CCRĐ, tôi sẽ là đao phủ”. Tôi không biết họ nói thế là nói thật hay nói đùa? Dù sao chăng nữa tôi cũng phản đối những suy nghĩ như trên vì đó là hành động mang tính trả thù, cái tư duy trả thù kiểu mạng phải đổi lấy mạng chắc cũng không còn chỗ đứng trong thế giới văn minh ngày nay.

Mà hãy coi những sai lầm trong quá khứ là những bài học để ta tránh không mắc phải hoặc lặp lại những sai lầm như thế.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Cải cách Ruộng đất và sự thay thế bộ tứ lãnh đạo Việt Nam
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiQ1ME7i791z7yZ58XdKzF-8EBWeKWpj_AMLogljTIhMfis67HA75bQ0Bz3UHhuvSB_-G0THBh66kAqCE_ZbkSGree7g6TslQ8DGPMRnmaJawp-yO1rzvlAihUjmlqSXIiCQIb4h6K9qC4oseO7haOX0QkiIxKdi5bzBIyd7CwG-6A8-zc4vODzFc92C1Jw/w640-h412/0-1.PNG


Cải cách Ruộng đất xảy ra trong bối cảnh nào? Tại sao bộ tứ lãnh đạo Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp lại dần bị giải thể, cùng với đó là sự trỗi dậy của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ?

Việt Nam vừa trải qua một cuộc chuyển giao quyền lực. Vào ngày 19/7, vị tổng bí thư lâu năm của Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng qua đời. Ông Trọng đã già yếu, nên trong một thời gian dài, có rất nhiều suy đoán về việc ai sẽ kế nhiệm ông làm lãnh đạo Đảng.

Như thường lệ đã xảy ra nhiều lần dưới chế độ cộng sản, không rõ việc chuyển giao quyền lực thực sự diễn ra như thế nào. Đã có các cuộc thảo luận không chính thức trên khắp các diễn đàn về những phe phái quyền lực khác nhau trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của Đảng. Tuy nhiên, cuối cùng chúng ta vẫn không biết rõ làm thế nào mà ông Tô Lâm lại trở thành người quyền lực nhất.

Trong bài viết này, tôi muốn quay ngược đồng hồ về một quá trình chuyển giao quyền lực quan trọng của giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam trong quá khứ. Cuộc chuyển giao quyền lực đó chứng kiến sự giải thể dần dần bộ tứ lãnh đạo: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp trong khoảng thời gian ba năm từ 1956 đến 1959.

Bốn người này đã thành lập một trong những nhóm lãnh đạo Đảng mạch lạc và hiệu quả nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản. Họ đã lãnh đạo Đảng kéo dài từ năm 1941, khi Hồ Chí Minh chính thức hội nhập trở lại phong trào Cộng sản Việt Nam.

Nhưng mười lăm năm sau, vào năm 1956, một phản ứng dây chuyền xảy ra, chỉ trong vài năm đã dọn đường cho sự trỗi dậy của hai lãnh đạo khác là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Hai người họ sẽ lãnh đạo Đảng trong 27 năm tiếp theo.

Tại sao và làm thế nào việc chuyển giao quyền lực đó diễn ra?

Một số cách giải thích
Lời giải thích điển hình thường có hai phần.

Phần đầu tiên tập trung vào chiến dịch Cải cách Ruộng đất đầy bạo lực được thực hiện từ năm 1953 đến năm 1956 ở miền Bắc Việt Nam. Theo lý thuyết đó, những lãnh đạo Đảng gắn bó chặt chẽ nhất với Cải cách Ruộng đất đều phải bị kỷ luật vì đã để cuộc cải cách diễn ra một cách “thái quá”. Khi Hồ Chí Minh “biết được” những điều xấu xảy ra trong chiến dịch, “Người” đã can thiệp và kỷ luật những người có trách nhiệm.

Có nhiều người nhận án kỷ luật, ở đây tôi chủ yếu nói về Tổng Bí thư Trường Chinh, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Văn Lương và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Hoàng Quốc Việt.

Khi Trường Chinh bị buộc phải từ chức Tổng Bí thư, Hồ Chí Minh đã lên thay chức vụ của Trường Chinh và chính thức nắm giữ trong 4 năm tiếp theo. Trong khi đó, ông Hồ chắc chắn đã quyết định để Lê Đức Thọ thay Lê Văn Lương làm Trưởng Ban Tổ chức trung ương Đảng. Đó là một vị trí quan trọng để giành quyền lực vì Lê Đức Thọ có ảnh hưởng lớn đến việc ai được đề bạt vào chức vụ cấp cao nào trong Đảng.

Phần thứ hai của cách giải thích tập trung vào yếu tố địa lý. Hồ Chí Minh biết chiến trường lớn tiếp theo của Đảng là miền Nam Việt Nam nên muốn đưa người có kinh nghiệm hoạt động ở miền Nam, nói cách khác là “người từ Nam ra” lên làm lãnh đạo. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phù hợp với yêu cầu đó.

Trong bài viết này, tôi sẽ đưa ra một vài ý kiến khác với cách giải thích trên.

Tôi sẽ lập luận rằng Cải cách Ruộng đất (1953-1956) là điều kiện quan trọng dẫn tới sự chuyển giao quyền lực này nhưng nguyên nhân thực sự của sự thay đổi là do Đại hội lần thứ 20 của Liên Xô.

Đại hội 20 diễn ra vào tháng 2 năm 1956. Đấy là dịp nhà lãnh đạo tương đối mới của Liên Xô Nikita Khrushchev đọc “Diễn văn bí mật” huyền thoại của mình. Trong bài phát biểu nhan đề “Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó”, Khrushchev đã dành hơn ba giờ để thảo luận về triều đại 28 năm tàn bạo của Joseph Stalin. Đại hội lần thứ 20 cũng chứng kiến sự tiến bộ khi đưa ra ba đường lối chủ đạo dành cho các đảng cộng sản anh em trên khắp thế giới: 1) Chống sùng bái cá nhân 2) Tăng cường dân chủ trong đảng, 3) Áp dụng pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Đối với các nhà lãnh đạo Đảng Việt Nam, bối cảnh diễn ra Đại hội 20 – đầu năm 1956, tức là ngay giữa làn sóng cải cách ruộng đất lớn nhất – là một bối cảnh đặc biệt tồi tệ.

Cần khẳng định Cải cách Ruộng đất là một chính sách trong phong trào Cộng sản Việt Nam. Nhiều tài liệu (phần lớn nằm trong bộ Văn kiện đại hội Đảng toàn tập) cho thấy Cải cách Ruộng đất – chính sách cưỡng chế, tịch thu, chia lại ruộng đất để giành sự ủng hộ của nông dân – là khát vọng tiêu biểu của Cộng sản Việt Nam trong suốt phong trào của họ những năm 1920 và 1930. Vấn đề không phải là Đảng có thực hiện Cải cách Ruộng đất hay không mà là khi nào sẽ thực hiện và Đảng sẽ dùng nó làm mục đích tuyên truyền để lôi kéo giai cấp nông dân thế nào.

Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa Lenin chính thống ở chỗ ông tin tưởng mạnh mẽ vào công thức cách mạng hai giai đoạn của Lenin đối với các nước thuộc địa. Cách tiếp cận hai giai đoạn đó cho rằng Đảng Cộng sản trước tiên nên tập trung sức lực vào việc chống lại và tiêu diệt quyền lực thực dân. Để đạt được mục đích đó, những người Cộng sản nên sử dụng lý tưởng của chủ nghĩa dân tộc để chiêu mộ giai cấp tư sản bản địa yêu nước vào sự nghiệp chống thực dân. Đây là giai đoạn chống đế quốc.

Sau khi chính quyền thực dân bị đánh đuổi, người cộng sản sẽ bắt đầu giai đoạn thứ hai. Đó là giai đoạn chống phong kiến, phản tư sản, khi Đảng giám sát đấu tranh giai cấp trong nước, giúp đỡ nông dân và công nhân lật đổ giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản bản địa.

Khi Hồ Chí Minh trở lại châu Á vào năm 1938 và dần dần tái khẳng định mình là người lãnh đạo phong trào Cộng sản Việt Nam, ông đã tổ chức Đại hội Đảng vào năm 1941. Hồ Chí Minh điều chỉnh cương lĩnh của Đảng theo hướng chủ trương cách mạng phù hợp hơn với công thức hai giai đoạn của Lenin. Do đó, ông đã chỉ đạo các đồng chí của mình như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng loại bỏ hầu hết những đề cập đến đấu tranh giai cấp khi tuyên truyền về Mặt trận Việt Minh cho dân chúng.

Về cơ bản, ông đã chỉ đạo đồng chí của mình bám sát các khẩu hiệu dân tộc chủ nghĩa cùng một số lý tưởng xã hội tiến bộ cơ bản. Những chính sách và mục tiêu khác vẫn chưa bị bỏ rơi, chỉ là chúng không phù hợp với tình hình lúc đó, khi Việt Nam cần tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Bài toán lương thực
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chính thức bắt đầu vào tháng 12 năm 1946 khi giới lãnh đạo Cộng sản rời Hà Nội rồi mở cuộc tấn công vào các đơn vị Pháp ở thủ đô và những vùng xung quanh tại miền Bắc. Người Pháp không có đủ binh lính để giành quyền kiểm soát toàn bộ Việt Nam một cách hiệu quả. Phần lớn miền Trung và Tây Bắc bị người Pháp bỏ lại. Đây trở thành những khu vực mà Cộng sản sẽ hoạt động để thành lập bộ máy nhà nước của họ.

Các tài liệu mà tôi nghiên cứu về giai đoạn này cho thấy, tại các vùng do nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiểm soát, lãnh đạo Đảng rất cần sự đóng góp về lương thực, lao động và binh lính. Trong ba thứ đó, lãnh đạo Đảng gặp khó khăn nhất là vấn đề làm sao để có được gạo.

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cần một lượng lớn gạo để nuôi các quan chức và quân đội ngày càng tăng của mình. Khi chiến tranh tiếp diễn, nhu cầu về gạo ngày càng tăng và nhiệm vụ thu mua gạo ngày càng khó khăn.

Để giải quyết vấn đề này, những người Cộng sản đã đưa ra đủ loại biện pháp nhằm kích thích tăng sản lượng nông nghiệp. Họ thử nghiệm các chiến dịch thi đua yêu nước – mọi người phải cùng nhau ra đồng và thách thức nhau làm việc chăm chỉ hơn. Họ cố gắng thuyết phục các lãnh đạo Đảng ở địa phương đưa ra một loại hợp đồng nông nghiệp với nông dân địa phương. Về cơ bản, nông dân sẽ nộp kế hoạch canh tác và sau đó ký tên đồng ý sản xuất một số lượng gạo nhất định. Họ cũng chia lại cho nông dân đất đai thu được từ giới thượng lưu đã trốn khỏi nông thôn lên thành phố.

Tuy nhiên, đất đai không hoàn toàn được trao cho nông dân. Nó chỉ được tạm thời trao cho họ và với điều kiện là phần lớn sản lượng canh tác phải được chuyển cho nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều nông dân phản đối rằng sản lượng từ mảnh đất được chia này không đủ lớn để trang trải chi phí canh tác và đóng thuế nặng nề.

Cuối cùng, đối với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không có biện pháp nào trong số này giải quyết được vấn đề làm thế nào để huy động đủ lượng gạo đóng góp cho chiến tranh.

Năm 1949, triển vọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong cuộc chiến đã được nâng cao đáng kể nhờ chiến thắng của phe Cộng sản Trung Quốc (trong Nội chiến Quốc-Cộng) và sau đó là việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chính thức được Trung Quốc, rồi Liên Xô và các nước khối Cộng sản khác, công nhận. Stalin quyết định rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ được cố vấn bởi Trung Quốc, nước sẽ điều phối việc cung cấp vũ khí của Liên Xô và Trung Quốc cho quân Bắc Việt.

Ngay sau đó, các nhóm cố vấn Trung Quốc đã đến cùng với số lượng lớn vũ khí. Không có gì ngạc nhiên khi nhóm cố vấn Trung Quốc kỳ vọng sẽ có quyền kiểm soát lớn đối với các hoạt động của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hồ Chí Minh có lẽ cảm thấy rằng ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc chiều theo những cố vấn kiểm soát viện trợ đó.

Số vũ khí viện trợ lần đầu tiên được đưa vào sử dụng trong Chiến dịch biên giới thu đông (1950). Trận chiến là một chiến thắng vang dội của quân Hồ Chí Minh và khiến quân Pháp rơi vào khủng hoảng tinh thần. Nhưng sau đó, trong khoảng một năm rưỡi, quân của ông Hồ đã bế tắc với quân Pháp và đồng minh tại những vùng do nhà nước Việt Nam cai quản.

Đồng thời, tình hình kinh tế ở các khu vực do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiểm soát tiếp tục xấu đi. Chính quyền đã trở nên cực kỳ khó khăn trong việc huy động sự đóng góp vật chất bằng gạo và các thực phẩm cần thiết để nuôi sống năm sư đoàn bộ binh. Và cố vấn La Quý Ba của Trung Quốc đã gây áp lực buộc lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải sử dụng cải cách ruộng đất để giải quyết các vấn đề lương thực.

Tôi nghĩ Hồ Chí Minh có niềm tin thực sự rằng cần phải tuân theo công thức hai giai đoạn chính thống của chủ nghĩa Lenin, rằng cải cách ruộng đất nên được hoãn lại cho đến sau khi chiến tranh kết thúc. Vì vậy, tôi nghi ngờ rằng ông Hồ đã thất vọng khi ông tới Moscow vào cuối năm 1952 và Stalin cũng nói với ông rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải tiến hành cải cách ruộng đất.

Thế là, với mong muốn có thêm viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã đồng ý thực hiện chương trình cải cách ruộng đất của La Quý Ba ngay trong chiến tranh, phản lại hai bước của Lenin.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
TẠI MIỀN BẮC VIỆT NAM [1]

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjZNxq32fcO3bwM2uz4tV0cgHFCu61i8OgeiEBH_XjamAKGvUAugD9QQzysf7F7YzdJke13fAhCkoe1oSb9M8ojygvCyA87QPZ_vrIFoGfnu8BnzDgNwJTrhwN5qoSRfoaELL2CZAepp-hTQOsnAbpXEPHjm1wx7wtL-kCePlVhioaTY-8LRD0etOy9i-1r/w640-h460/0-1.PNG


Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xoá bỏ văn hoá phong kiến, tiêu diệt các thành phần phản quốc (theo Pháp, chống đất nước), phản động (chống chính quyền) như địa chủ phản cách mạng, Việt gian, cường hào cộng tác với Pháp... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thực hiện vào những năm 1953–1956.

Theo Luật Cải cách ruộng đất thì Cải cách ruộng đất có mục tiêu “thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển, cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc”. Cải cách ruộng đất có mối liên quan chặt chẽ với phong trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.

Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Dựa theo mô hình “thổ địa cải cách” của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc.

Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xoá bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Trong giai đoạn đầu, cuộc cải cách thu được kết quả tốt, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần của quân dân, khiến họ phấn chấn và tích cực chi viện cho kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, trong giai đoạn sau, từ giữa 1955, do vội vã nhân rộng cải cách tới nhiều địa phương, trong khi trình độ dân trí lại thấp đã khiến việc thi hành bị mất kiểm soát, gây ra nhiều phương hại và tổn thất, nhất là trong việc nông dân quá khích ở các địa phương đã lạm dụng việc xét xử địa chủ để trả thù cá nhân, thậm chí xảy ra việc dân chúng vu oan và tấn công cả những đảng viên, cán bộ chính quyền.[5] Sự quá khích này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây phương hại đến sự đoàn kết của người dân, ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân với Đảng Lao động Việt Nam. Đến đầu năm 1956, cải cách bị đình chỉ, và suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.

Bối cảnh lịch sử và mục đích
Theo thống kê phân bố ruộng đất ở miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Đầu năm 1945, tầng lớp nông dân nghèo (không có hoặc chỉ có rất ít ruộng đất) chiếm 60% dân số nông thôn, nhưng chỉ sở hữu khoảng 10% ruộng đất. Còn giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam, địa chủ thực dân Pháp, địa chủ Công giáo chiếm không tới 5% dân số nhưng chiếm hữu 70% ruộng đất. Ngay từ cuối những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã mô tả nông dân Việt Nam như sau: “Ruộng bị Tây chiếm hết, không đủ mà cày. Gạo bị nó chở hết, không đủ mà ăn. Làm nhiều, được ít, thuế nặng... Đến nỗi chết đói, hoặc bán vợ đợ con, hoặc đem thân làm nô lệ như những người nó chở đi Tân thế giới...”.

Nạn đói năm Ất Dậu làm 2 triệu người chết, tỷ lệ chết đói cao nhất là những hộ nông dân không có đất canh tác. Việc phân phối ruộng đất bất bình đẳng này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ về các nạn đói mới hoặc bạo động có thể xảy ra trong tương lai. Trong báo cáo của Hồ Chí Minh tại khoá họp Quốc hội lần thứ III, ông khẳng định “Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cày có ruộng giải phóng sức sản xuất ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến, mới có thể chấm dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh mẽ lực lượng to lớn của nông dân để phát triển sản xuất và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Mục đích của cải cách ruộng đất là: Tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến”.

Chương trình cải cách ruộng đất là một bước trong tiến trình giải quyết mâu thuẫn xã hội từ thời Pháp thuộc, đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, do Đảng Lao động Việt Nam tổ chức và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thực thi, hệ thống hoá và khai triển trên địa bàn rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đã làm từ những năm đầu Cách mạng tháng Tám:

1-Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người Việt theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang vì chiến tranh
2-Phân chia đất canh tác cho tá điền
3-Cắt giảm địa tô
4-Bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng
5-Phục vụ cho nhiệm vụ tối cao của dân tộc lúc đó là đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi hoàn toàn

Theo các tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam thì các công việc này cũng được Đảng và Chính phủ tiếp tục từng bước giải quyết trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đến 1953 thì mới được phát triển rộng (bắt đầu tại Thái Nguyên).

Tại kì họp thứ ba của Quốc hội Việt Nam, để phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lý hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ”.

Trước đó, thông tư liên bộ năm 1949 đã đưa ra những nguyên tắc chủ yếu về việc phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này được tịch thu từ địa chủ của người Pháp, hoặc từ địa chủ người Việt thông đồng với Pháp. Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV (5/1948) đề ra chính sách: Tịch thu ruộng đất và tài sản của Việt gian (đưa ra toà án tuyên bố rõ ràng), ruộng đất thì chia cho dân cày cấy, còn tài sản thì tuỳ từng trường hợp cấp cho dân cày; những đồn điền tịch thu của Pháp thì giao cho Chính phủ tạm thời quản lý; thành lập ở mỗi đồn điền một Ban quản trị có trách nhiệm phân phối ruộng cho dân, giúp đỡ kế hoạch cho dân cày cấy...

Chính sách
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt tại hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930 nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Đông Dương là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Luận cương cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để”. Luận cương cho rằng “có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương khẳng định: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.[15] Tháng 12/1930, thư của Ban Thường vụ Trung ương gửi các cấp đảng bộ cho rằng phải xét địa chủ “về phương diện giai cấp” là một giai cấp “dùng cái quyền có đất để bóc lột dân nghèo, hãm hại kinh tế dân cày” và ngăn trở sức sản xuất. Địa chủ là “thù địch của dân cày không kém gì đế quốc chủ nghĩa”, “nó quan hệ mật thiết với quyền lợi của đế quốc chủ nghĩa”, “liên kết với đế quốc mà bóc lột dân cày”. Ban Thường vụ Trung ương chủ trương “tiêu diệt địa chủ”, “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông”. Đến tháng 10/1936, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Trung ương Đảng đã phê phán quan điểm của Luận cương chính trị tháng 10/1930: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng... nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng.” Năm 1938, Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh cùng xuất bản tác phẩm “Vấn đề dân cày” nhằm nghiên cứu thực trạng của nông thôn Việt Nam. Các tác giả cho rằng vấn đề ruộng đất và dân cày là nội dung trụ cột của vấn đề Đông Dương; phân tích địa vị giai cấp, vị trí khuynh hướng và tính chất của giai cấp nông dân; phê phán những nhận thức và quan điểm sai lầm đối với giai cấp nông dân; tố cáo trước dư luận những chính sách của thực dân và phong kiến về ruộng đất, tô thuế, nạn cho vay nặng lãi... đối với dân cày và nêu lên những yêu sách của dân cày Đông Dương trước Mặt trận Nhân dân Pháp.

Từ tháng 10 năm 1952, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bản “chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam” cho Stalin để “đề nghị xem xét và cho chỉ dẫn” và cho biết chương trình hành động được lập bởi chính ông dưới sự giúp đỡ của Lưu Thiếu Kỳ. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, chương trình cải cách ruộng đất được đặt ra nhằm khắc phục mâu thuẫn xã hội và sự khốn khổ của nông dân đã tích tụ suốt thời Pháp thuộc, qua đó động viên nông dân (chiếm phần lớn dân số Việt Nam khi đó) ủng hộ công cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Lao động Việt Nam tháng 11/1953 bàn về cải cách ruộng đất. Tại hội nghị, Trường Chinh đọc báo cáo có đoạn: “Cải cách ruộng đất chính là để làm cho kháng chiến mau chóng thắng lợi. Nhân dân làm cách mạng, nhân dân kháng chiến và kiến quốc. Đại đa số nhân dân là nông dân. Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, phải tiêu diệt đế quốc xâm lược và giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến. Cải cách ruộng đất là một phương pháp chủ yếu đẩy mạnh kinh tế quốc dân phát triển. Kinh tế quốc dân phát triển thì vấn đề cung cấp cho tiền tuyến và hậu phương được đảm bảo chắc chắn, lực lượng của nhân dân được bồi dưỡng, ta có thêm sức người, sức của để kháng chiến trường kỳ cho đến thắng lợi cuối cùng. Hồ Chủ tịch đã đề ra hai nhiệm vụ trung tâm trước mắt, quan hệ mật thiết với nhau: đánh giặc và cải cách ruộng đất...“Ông cũng nhắc đến câu nói của Stalin: “Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân”, và của Mao Trạch Đông trong thời kháng Nhật: “Kẻ địch lớn đang đứng trước mắt, không giải quyết dân chủ dân sinh thì không đánh đuổi được Nhật”. Báo cáo nêu rõ: địa chủ chưa đầy 5% nhân số cùng bọn đế quốc chiếm trên dưới 70% ruộng đất ở Việt Nam, còn nông dân gần 90% nhân số mà chỉ có trên dưới 30% ruộng đất. Không đầy 5% địa chủ bóc lột gần 90% nông dân bằng tô cao, lãi nặng, v.v. Báo cáo cũng nhắc lại báo cáo của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị: “Then chốt thắng lợi của kháng chiến là mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển quân đội, củng cố Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt. Chỉ có phát động quần chúng cải cách ruộng đất, ta mới tiến hành những công việc đó được thuận lợi”. Đường lối của Đảng ở nông thôn là dựa vào bần cố nông (cố nông là vô sản, bần nông là nửa vô sản ở nông thôn), đoàn kết trung nông, liên hiệp với phú nông về chính trị, bảo tồn kinh tế của họ, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt.

Ngày 4 tháng 12 năm 1953, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhóm họp và thông qua Dự luật Cải cách ruộng đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này vào ngày 19 tháng 12 năm 1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên Luật Cải cách Ruộng đất.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 16 trang (155 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [13] [14] [15] [16]