Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Trần Bích San » Mai Nham thi thảo
Đăng bởi hongha83 vào 05/04/2020 15:44
憶從渭江別,
雲山忽千里。
秉筆侍薇垣,
馳驅夕繼晷。
環顧念儔侶,
未有一日置。
同門諸君子,
文行盡共治。
棘院將騰英,
龍門佇躍鯉。
亹亹談敘間,
沉吟忽欲起。
道路阻且長,
遠懷亦少慰。
希曾也不才,
滿朝遽猥廁。
家嚴且遠宦,
家慈將老至。
幸我同心人,
念我不遐棄。
朝夕常往來,
感戴豈已已。
而今之升平,
南亭復邐迤。
沱水濤澒溶,
雄關石碕礙。
回首望帝鄉,
又隔重山水。
況聞此邦人,
兵變昔紛靡。
屨經饑饉來,
閭閻久噓唏。
今復遘元陽,
田禾盡枯死。
衝繁且疲難,
撫柔曰何以。
雖然計大事,
收放一心耳。
但求吾一心,
非難亦非易。
徘徊方寸中,
君臣與父子。
孰曰無私情,
孰曰無公義。
遙遙天一方,
琴書獨徙倚。
眷眷平生交,
容儀見夢寐。
相思復何言,
兩地平安字。
Ức tòng Vị giang biệt,
Vân sơn hốt thiên lý.
Bỉnh bút thị vi viên,
Trì khu tịch kế quỹ.
Hoàn cố niệm trù lữ,
Vị hữu nhất nhật trí.
Đồng môn chư quân tử,
Văn hạnh tận cộng trị.
Cức viện tương đằng anh,
Long môn trữ dược lý.
Vĩ vĩ đàm tự gian,
Trầm ngâm hốt dục khởi.
Đạo lộ trở thả trường,
Viễn hoài diệc thiểu uỷ.
Hy Tăng dã bất tài,
Mãn triêu cự ổi xí.
Gia nghiêm thả viễn hoạn,
Gia từ tương lão chí.
Hạnh ngã đồng tâm nhân,
Niệm ngã bất hà khí.
Triêu tịch thường vãng lai,
Cảm đới khởi dĩ dĩ.
Nhi kim chi Thăng Bình,
Nam đình phục lệ dĩ.
Đà thuỷ đào hống dung,
Hùng quan thạch kỳ ngại.
Hồi thủ vọng đế hương,
Hựu cách trùng sơn thuỷ.
Huống văn thử bang nhân,
Binh biến tích phân mỹ.
Lũ kinh cơ cận lai,
Lư diêm cửu hư hý.
Kim phục cấu nguyên dương,
Điền hoà tận khô tử.
Xung phồn thả bì nan,
Phủ nhu viết hà dĩ.
Tuy nhiên kế đại sự,
Thu phóng nhất tâm nhĩ.
Đãn cầu ngô nhất tâm,
Phi nan diệc phi dị.
Bồi hồi phương thốn trung,
Quân thần dữ phụ tử.
Thục viết vô tư tình,
Thục viết vô công nghĩa.
Dao dao thiên nhất phương,
Cầm thư độc tỷ ỷ.
Quyến quyến bình sinh giao,
Dung nghi kiến mộng mị.
Tương tư phục hà ngôn,
Lưỡng địa bình an tự.
Nhớ từ ngày ở sông Vị chia tay
Núi mây cách vời bỗng xa nghìn dặm
Chầu hầu biên tập ở Viện Hàn lâm
Cứ mải miết từ sớm đến tối
[Muốn dành]Thời giờ để nhớ đến bạn bè
[Nhưng]Chưa có được một ngày nào rảnh rang
[Được tin]Các bậc quân tử đồng môn [ở quê nhà]
Hết sức mình học tập tu dưỡng
Những bậc anh tài đang còn ở nơi trường ốc
[Như]Cá chép chờ mong vượt cửa Long môn
Nhiều khi đang mê mải bàn luận
[Có lúc]Đang trầm ngâm bỗng choàng dậy
[Nhưng]Đường đi đã trắc trở lại dài dặc
[Tôi ở đây]Vừa xa xăm lại ít được an ủi
Hy Tăng này cũng bất tài
Khắp triều đã kháo [tôi] quê mùa, thô kệch
Cha tôi làm quan ở xa
Mẹ tôi đã đến tuổi già yếu
[Ở đây]May còn có được các bạn đồng tâm
Nhớ đến mà không nỡ bỏ
Sớm chiều thường qua lại
Cảm thông, yêu quý không kể xiết
Đến nay tôi đi Thăng Bình
Ngôi đình phía nam người nối nhau [đưa tiễn]
Đà giang nước sâu rộng
Cửa Hùng quan toàn đá là đá
Quay đầu nhìn lại kinh đô
Những cách trập trùng núi biếc
Huống chi còn nghe nói người vùng này
Việc binh biến trước đây đã gây rối ren
Lại trải qua nhiều cơn đói kém
Xóm làng lâu nay vẫn than van
Đến nay lại gặp tiết nguyên dương
Lúa ruộng đều chết khô cả
[Đây là]Nơi xung yếu, phức tạp, xơ xác
Thì làm sao để vỗ yên
Tuy nhiên kế hoạch trù tính việc lớn
Chỉ cần biết “thu phóng” mà thôi
Nếu ta có được tấm lòng ấy
Thì không có gì khó, cũng không có gì dễ
Duy có tấc lòng riêng vẫn bồi hồi
Đạo vua tôi cùng đạo cha con
Ai rằng không phải là tình riêng
Ai rằng không phải là nghĩa công
Xa cách, mỗi người một phương trời
Chỉ còn khuây khoả một mình cùng đàn và sách
Nhớ lại tình bạn thuở bình sinh
Hình dung chỉ còn trong mộng mị
Tương tư còn nói gì được đây
Chỉ cầu đều được “bình an” hai chữ
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi hongha83 ngày 06/04/2020 15:44
Bến Vị giang từ khi chia biệt
Bỗng núi mây mờ mịt xa xăm
Vào triều, sung Viện Hàn lâm
Việc công mải miết bút không dám rời
Ngoảnh nhớ bạn phương trời quê cũ
Chưa được ngày thư thả thong dong
Nghe tin các bạn đồng song
Dùi mài kinh sử chờ mong đến ngày
Chí đã rắp đường mây rộng bước
Hội đăng khoa cá vượt Vũ môn
Đương khi mê mải luận bàn
Trầm ngâm, chợt muốn dặm ngàn ruổi rong
Đường hiểm trở ngăn sông cách núi
Bước gian nan, an ủi nào ai
Hy Tăng tôi vốn bất tài
Lại nhiều thô vụng trước nơi bệ rồng
Cha trị nhậm tận vùng biên tái
Mẹ tuổi già như chuối chín cây
Nhớ thương vóc hạc hao gầy
Tình riêng đau đáu khôn khuây nỗi niềm
May còn được bạn hiền lui tới
Nghĩa đồng liêu thăm hỏi, tâm tình
Khi tôi phó nhậm Thăng Bình
Phương Nam mười dặm trường đình tiễn đưa
Sông Đà giang nhấp nhô sóng cả
Cửa Hùng quan vách đá dăng thành
Ngoảnh đầu nhìn lại đế kinh
Trời xanh thăm thẳm núi xanh trập trùng
Dân bản hạt trước từng dấy loạn
Nay đói nghèo tiếng oán lời than
Vận trời, giữa tiết Nguyên dương
Ruộng khô, lúa héo thảm thương trăm bề
Xem tình thế nhường kia khốn khó
Sớm liệu trù kế vỗ yên dân
Phóng tài hoá thu nhân tâm
Qua cơn cùng quẫn sẽ dần mở mang
Lòng chẳng quản đảm đang gánh nặng
Không dễ dàng cũng chẳng khó khăn
Bồi hồi đạo nghĩa quân thân
Nửa phần thờ chúa, nửa phần nhớ cha
Chữ Cương thường, Nước - Nhà đều trọng
Lẽ riêng chung phải gắng đôi đường
Mỗi người riêng biệt một phương
Tiêu dao trang sách cung đàn làm vui
Nhớ bạn hữu từ thời niên thiếu
Hình ảnh thường nương níu khó quên
Thư sao kể hết nỗi niềm
Cầu xin hai chữ bình yên đôi đàng
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 24/04/2022 16:42
Nhớ ngày sông Vị chia tay,
Dặm nghìn cách trở núi mây chập chùng.
Vào triều ở viện hàn lâm,
Việc công mãi miết dám không trễ tràng.
Được tin bạn cũ đồng môn,
Chuyên cần học tập chờ mong đến kỳ.
Chí lăm rộng bước đường mây,
Vũ môn cá vượt hội kỳ đăng khoa.
Đương khi bàn luận vào ra,
Đang trầm ngâm bỗng xót xa giật mình.
Đường đi cách núi ngăn sông,
Chốn xa nên ít kẻ gần tâm tư.
Thăng Bình nay bước chân đi,
Đình nam cám cảnh chia ly tiễn người.
Sông Đà thăm thẳm nước trôi,
Cửa Hùng đá dựng lên trời nhấp nhô.
Quay đầu nhìn lại kinh đô,
Trập trùng núi biếc lô xô non ngàn.
Dân quê sống cảnh nghèo nàn
Bởi đây là chốn chiến tràng năm xưa.
Nguyên dương ruộng lúa chết khô,
Làm sao sớm liệu vỗ về yên dân.
Chỉ cần thu phục nhân tâm,
Khó khăn cũng sẽ trở nên dễ dàng.
Tấc lòng suy gẫm miên man,
Hiếu trung một gánh lo toan cho tròn.
Phương trời cách trở chon von,
Thong dong ngâm vịnh cung đàn làm vui.
Bồi hồi nhớ bạn thiếu thời
Ảnh hình khắng khít một đời khó quên.
Trong mơ gặp gỡ thoả nguyền,
Cầu mong hai chữ bình yên đôi đường.