辛未秋奉派如東公務

厎事尋思雙淚流,
十年常繫至尊憂。
生平未有涓埃報,
身世無能湖海遊。
清禁日邊紅葉曉,
香山天外碧雲秋。
少年本負相如氣,
不學文通賦別愁。

 

Tân Mùi thu phụng phái như đông công vụ

Chỉ sự tầm tư song lệ lưu,
Thập niên thường hệ chí tôn ưu.
Sinh bình vị hữu quyên ai báo,
Thân thế vô năng hồ hải du.
Thanh cấm nhật biên hồng diệp hiểu,
Hương sơn thiên ngoại bích vân thu.
Thiếu niên bản phụ Tương Như khí,
Bất học Văn Thông phú biệt sầu.

 

Dịch nghĩa

Suy nghĩ việc đâu đâu, mà hai dòng lệ nhỏ
Mười năm thường gắn bó với nỗi lo của nhà vua
Bình sinh chưa đền đáp được mảy may
Thì thân này không thể rong chơi nơi hồ biển
Trong cung cấm, lá cây nhuốm đỏ dưới ánh nắng sớm
Là mây thu xanh biếc trên vòm trời Hương Sơn
Lúc trẻ tuổi, vẫn ôm chí khí Tương Như
Chẳng học Văn Thông làm thơ chia ly sầu thảm


Sách Đại Nam thực lục có chép việc Trần Bích San được cử đưa phái bộ một nước ngoài bị bão giạt vào bờ biển nước ta, sang tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vào mùa xuân năm Nhâm Thìn (1871). Như thế, ông đi vào mùa thu năm Tân Mùi, về vào mùa xuân năm Nhâm Thân. Trên đây là cái cớ công khai, còn thực ra ông được giao nhiệm vụ “phỏng sát” tình hình.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo

Đo đắn sự đời lệ chảy ròng
Vua tôi gắn bó đã mười đông
Bình sinh ân nghĩa chưa đền đáp
Hồ hải rong chơi dám ước mong
Thu tạnh non Hương mây nhuốm biếc
Nắng mai vườn ngự lá phơi hồng
Trẻ trung chí khí từng ôm ấp
Đâu có như ai ảo não lòng

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Sự đời vời vợi lệ đôi dòng,
Gắn bó vua tôi đã chục đông.
Ơn nghĩa một đời chưa báo đáp,
Rong chơi bốn biển há thong dong!
Hương Sơn trời đượm mây thu biếc,
Thành nội cây phô ánh nắng hồng.
Chí cả Tương Như sao nỡ phụ,
Thảm sầu chẳng học thói Văn Thông.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời