Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Trương Đăng Dung
Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras
Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu
các nữ y tá nhìn ta
kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống.
Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]
Một bài thơ ám ảnh
Trần Anh Thái
Khoảng cuối năm 2004, tôi vô tình đọc được bài thơ “ Những kỷ niệm tưởng tượng”, đăng trên tạp chí Sông Hương, tác giả của nó là Trương Đăng Dung. Lúc đó tôi chưa biết Trương Đăng Dung chính là PGS- TS, tác giả của cuốn sách “ Tác phẩm văn học như là quá trình”- Một chuyên luận nổi tiếng, được các học giả trong nước và ngoài nước đánh giá rất cao- Chuyên luận nghiên cứu về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, dưới ánh sáng của mỹ học tiếp nhận… Nhưng bài thơ dài ba mươi hai câu, ông viết tưởng nhớ một người bạn nước ngoài là nhà thơ người Hunggari Hollo Andras, đã gây nên chấn động mạnh mẽ đến gai người; một ấn tượng đau thương, quằn quại trong sâu thẳm người đọc là tôi. Đọc lại lần nữa, rồi một lần nữa…tôi càng yêu quí và trân trọng sự giản dị mà sâu xa ẩn chứa trong từng câu, từng chữ. Bài thơ không chỉ lôi cuốn tôi bằng một giọng lạ, mới và về một ký ức đau thương, xa xót mà còn vì nó có được một cách sử dụng hình ảnh, cách kiến tạo bài thơ, cách sắp xếp ngữ pháp câu thơ rất riêng, tạo nên một hiệu quả nghệ thuật khác thường. Bài thơ của Trương Đăng Dung được viết từ tháng 4- 1983, tức cách nay đã gần ba mươi năm ( đã in lần đầu trên tạp chí Tác phẩm mới của Hunggari, số 10- 1983). Vào thời điểm ấy, nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm. Cảm ơn Trương Đăng Dung đã cho tôi thưởng lãm bài thơ rất hay này.
Nguồn: http://phongdiep.net/defa...ction=article&ID=8037
Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh
Đỗ Quyên
Quả là một sáng tác thơ đặc sắc đến rùng mình! Đọc bài trên phongdiep.net, tôi cũng bị "ám ảnh" theo người bình, và nhìn thấy nó ánh lên một thứ “thi pháp” khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Ở đâu khác nữa thì không biết chứ ở bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi, hỡi thi sĩ Anh-Ấn Rudyard Kipling!
Chia sẻ với các nhận định khái quát của Trần Anh Thái, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng làm nên bài thơ:
1. Thủ pháp áp đặt:
Bí kíp thi pháp là đây! Dẫu chưa cần biết Hollo Andras (1) là ai - miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v... không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” - nhưng độc giả vẫn nhận được thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Do tựa đề đã có các từ “tưởng tượng”, sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng về sắp xếp nghệ thuật. Chính cái khiên cưỡng đã gợi ra hương vẻ kỳ quái của thơ. Đến lượt mình, chính cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về với đời bình dị.
2. Thủ pháp phi lý:
2.1. Phi lý về thời gian khiến độc giả bị choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”) cho tới câu “tôi với anh...”, rồi “ngày ta sinh...”! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn và khéo!
2.2. Phi lý về không gian địa lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng một loạt hình ảnh phi thực, siêu thực, hay cực thực tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế rồi lý trí lại bị che lấp trong một chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý không gian, hoàn cảnh; Và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi” và “anh”. Nhân vật phụ ấy vụt trở thành VIP của tác phẩm! Tính nhân bản của sáng tạo là chỗ này: Sinh nở gọi sinh nở! Chất trữ tình của bài thơ cũng là đấy! Nếu đọc ẩu sẽ tưởng bài thơ như một chuỗi hồi ức khùng dở và rời rạc, dằn vặt và khô khan...
2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau ... làm đồ nhắm rượu”, “chuột ăn cắp tã vá”, “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”...) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các hiện thực có thật trong đó nhà thơ, bốn mươi năm trước, từng là một chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được thưởng huân chương chiến công của một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót”, cái “ấn tượng đau thương, quằn quại”, nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản, khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm văn chương. Viết về hậu chiến mà đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!
2.4. Phi lý về kết cấu, bài thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một chuỗi các “kỷ niệm" không chỉ “tưởng tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể một câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy. Mở bài và kết bài đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống một chuyện cổ tích thời a-còng!
2.5. Phi lý về cảm hứng chủ đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ Tình và cái Tự Sự; trong đó hai cái sau (Hài, Tự Sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt.
3. Thủ pháp thành phần phụ:
Có thể nói, bài thơ của Trương Đăng Dung đã sử dụng hết mình thủ pháp này; từ tựa đề, tới lời đề tặng và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến chân. Tựa đề, như nói trên, “ăn nhau” là ở các từ “tưởng tượng”. Lời đề tặng “Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật “anh”. Địa điểm, thời gian làm bài thơ“Budapest, 4-1983”, nhất là mốc “1983” dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang mạng tạp chí Sông Hương, thì là các con số“5-1984”; chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu thơ đầu tiên và át chủ, ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”.) Tức là, bài thơ với“ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy ba-mươi-lăm-dòng-thơ.
Thông thường, các “phụ tùng” của một bài thơ rất dễ bị (và cũng nhiều khi là được), những “mẫu nghi thiên hạ thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí... vứt béng nó đi cho gọn! Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn tác phẩm. (Nói cho ngay, không thể nào coi tựa đề như một thành phần phụ! Ở đây chỉ mang ý khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ.) Nhưng còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc, người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng mới có nhà phê bình để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài“Những kỷ niệm tưởng tượng”, xin được mạnh bút mà rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ. (2)
4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây:
Biểu hiện thi ca qua các yếu tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt nhi đồng “làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”), v.v... mà chí tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo / bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...) của hai khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội dung tư tưởng cho đến cấu trúc, phong cách rồi hình tượng, giai điệu...
Mạnh hơn các thủ pháp khác, thủ pháp xóa nhòa quyết liệt mọi đường biên quốc gia, dân tộc, cá thể trong bài thơ làm nổi lên một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua nhà thơ Nga Konstantin Simonov với "Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai". Phải rồi, đó là của “chúng ta”, bởi vì đã “lớn lên cùng nhau”, “cùng nhau thấy...”, cùng nhau thấy....” và “cùng nhau thấy...”! Chúng ta – đó là Hollo Andras và Trương Đăng Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hương và phongdiep.net, là v.v... và v.v... Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp nhận thơ. Nghệ thuật thi ca phải là vậy!
5. Thủ pháp điểm rơi của bài thơ:
Thiển nghĩ, không chỉ như nhà bình thơ đã nói - “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” - mà ngay bây giờ, những năm 2000, nó vẫn “độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ. Nhưng vì thi ca Việt vẫn đang qua cái thời né tránh hiện thực thô, thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang của bài thơ.
*
Ám ảnh là đức tính chính của một sáng tạo văn nghệ.
Thay cho từng lời cám ơn nhà thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn thơ Hung, Việt Tác Phẩm Mới, Sông Hương và phongdiep.net, mời tất cả chúng ta hãy có lời tổng cám ơn Nàng Thơ – mẫu nghi của cái thiên địa tràn đầy thơ ca này!
Vancouver, 29-9-2009
Đỗ Quyên
Gửi bởi Kitten84 ngày 16/08/2011 07:01
Trương Đăng DungNhững kỷ niệm tưởng tượng* của Trương Đăng Dung, không dày, nhưng đủ đầy trong suy nghiệm về thời gian, đau khổ và cái chết qua thứ ngôn ngữ "thỏa thuận" (như Heidegger buộc phải sử dụng ngôn ngữ siêu hình học để nói lên tư tưởng).
Xao xuyến (angoisse) - một khám phá lớn của triết học hiện sinh, là nỗi sợ hãi căn nguyên. Sợ hãi không gì cả, không đối tượng cụ thể, không thể nắm bắt. Nỗi sợ vô hình. Nó có đó, nhưng không thể gọi tên. Khi ta muốn gọi tên nó, khi ta ý định giải thích nó thì nó liền lẩn mất. Lẩn mất, mà vẫn ở lại. Đột ngột xuất hiện trở lại, và gây xao xuyến, khắc khoải.
Chỉ có vài sinh thể ưu tư thâm trầm mới bắt gặp sợ hãi căn nguyên này. Một bắt gặp không cần biến cố lớn lao trong cuộc sống, mà là rất tình cờ. Khi ta lang thang lơ đễnh một mình giữa đồng không mông quạnh, hay khi nửa đêm chợt tỉnh bất ngờ ta thấy ta bất chợt có mặt trên đỉnh núi lạ lẫm. Hay như trên một chuyến tàu đêm nơi một thành phố xa lạ:
Một chuyến tàu hối hả
chạy về đâu trên đất lạ trong đêm.
Tôi thức với trái tim
những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực
không còn đủ sức
chạy theo con tàu.
Khi ta thoát khỏi thao túng hay bận tâm của sự vật quanh ta. Bằng hữu, anh chị em, đồ đạc quen thuộc trong căn phòng quen thuộc.
Khoảng cách bỗng dài thêm
đêm choàng hết những gì còn lại
đâu đó còn ai thức với tôi không?
("Đêm ở Roma")
Không gì cả. Tất cả vật thể đều trôi đi. Chỉ một mình ta ở đó. Ta "thấy" nó và, "được" nó. Như một tặng vật, đặc ân ban tặng cho kẻ trầm tư. Ban tặng không như một chiếm hữu nó, mà ngược lại, chính nó chiếm hữu ta. Lay động ta dữ dội ở thẳm sâu nhất tâm thức ta, cả con người ta. Chối bỏ không được. Chạy trốn càng không.
Đạo Phật cho rằng chỉ khi nào con người vượt qua nỗi sợ hãi căn nguyên này, họ mới đạt đến hạnh phúc viên mãn. Các bậc tu hành với bản lĩnh tu tập và quả phước từ ngàn kiếp trước mới đạt đến cõi đó. Con người phàm trần thì cực khó. Thi sĩ càng không, có lẽ. Không có vấn đề hơn hay kém ở đây, mà khác đi: thi sĩ không muốn "đáo bỉ ngạn".
Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung đầy tràn nỗi xao xuyến, khắc khoải đó. Thời gian, cái chết ("lũ quạ" mang ý nghĩa tượng trưng) và đau khổ (qua, với và trong "bức tường") như thứ ám ảnh - ba trong một, một mà ba - đi xuyên suốt tập thơ mỏng này.
Những bức tường, những bức tường, những bức tường là nhịp ba đập liên lỉ, lặp đi lặp lại không dứt. Những bức tường chính là nguyên do của nỗi khổ ải tạo thêm nhiều dòng sông đau khổ gọi mời phụ lưu đau khổ khác đổ thêm bao đau khổ vào bể khổ cuộc đời - mênh mông, bất tuyệt.
Có những bức tường ta xây
và ta phá,
có những bức tường ta không xây
và không nhìn thấy.
Nhìn thấy hay không nhìn thấy thì vẫn vậy. Dù ý thức hay không ý thức, chủ hay khách, tác nhân hay nạn nhân, buồn hay vui, chia tay hay sum họp, khóc cười, yêu ghét, hồ hởi bắt tay hay xoay lưng lánh mặt hoặc đầu gối tay ấp… ta đều dựng lên bức tường. Những bức tường tạo đau khổ. Tôi khổ, em khổ, anh khổ, chúng tôi khổ, các anh khổ… Tất cả đều bị bao quanh, bị khu trục - không thoát ra được.
Vậy thì làm sao?
Đức Phật ban phát Tứ diệu đế hòng đưa con người thoát khỏi vòng trầm luân của kiếp nhân sinh. Krishnamurti đơn giản hơn: hiểu tức là giải thoát. Nhưng thế nào là hiểu?
Hiện thực thời hậu hiện đại chỉ còn là vật thế vì giả tạo (simulation) đã mất hết hệ quy chiếu với hiện thực như thực mà chỉ quy chiếu đến các kí hiệu khác rồi kéo theo vô vàn kí hiệu khác nữa, trùng trùng duyên khởi tạo tác từ chính ngôn ngữ và hình ảnh đang ngập tràn thế giới ta sống.
Con người [thời] hiện sinh vong thân giữa thế giới đồ vật và trong tha nhân; còn hơn thế, con người hậu hiện đại chìm ngập trong vô vàn hình ảnh phi căn nguyên. Trong khi kẻ hiện sinh bất lực và đau khổ và than vãn, thì kẻ hậu hiện đại kêu gọi nhập cuộc chịu chơi.
Thế nhưng, thi sĩ không phải là tư tưởng gia hay đạo sư, hắn có cách khác: cách đặc thù của thi sĩ. "Chỉ chúng ta kẻ ngụ cư ngang thời gian/ là không rớt lại" (Inrasara, Sinh nhật cây xương rồng). Trương Đăng Dung có cách khác nữa:
Anh không thấy thời gian trôi
chỉ thấy những đám mây di chuyển…
("Anh không thấy thời gian trôi")
Nghĩa là chết đi thời gian, chết đi ba phân kì thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lại. Chết đi cả kì gian (durée). Biến "sát-na thành thường trụ". Chết đi với thời gian có nghĩa là hiểu thời gian, cũng có nghĩa là giải thoát khỏi khổ đau và cái chết. Giải thoát không phải là cắt đứt, không là thoát đi, ra đi, bỏ đi mà là ở lại. "Đi - như là ở lại". Bởi thi sĩ vẫn ở trong cõi người ta, hắn đang bổn phận canh giữ ngôn ngữ dân tộc. Bố tát là hàng đạt đạo, nhưng khác với A-la-hán quả vị đầu, Bồ tát không bỏ đi mà ở lại. Ở lại và chấp nhận nói ngôn ngữ của cõi người. Ngôn ngữ như là thứ phương tiện thiện xảo của thương lượng, hay của "thỏa thuận" ý nghĩa - nói như Trương Đăng Dung.
Văn chương Việt Nam thiếu tư tưởng, - các tư tưởng nền tảng. Triết lí nếu có, chỉ là mấy lí sự vụn, triết lí cóp nhặt đầy chắp vá. Có được một tác phẩm mang tính tư tưởng là điều hiếm.
Năm năm trước Gửi VB (NXB Hội Nhà văn, H., 2006) là một. Phan Thị Vàng Anh đánh thức sự vật đang có mặt trong sinh hoạt ngày thường giữa đời thường. Đúng hơn, các bài thơ gọi tên sự vật đang thức, những sự vật đang trầm tư. Những phố, chung cư, mưa, con hẽm, chiếc taxi, áo len đỏ, cầu thang, cái điện thoại, ngọn đèn, giường, bàn, máy, đồng hồ trên tường, mọt nghiến chân bàn, lá xanh vươn qua song, những đàn bướm trắng, hoa lít nhít... tất cả sự vật có đó. Với con người. Trong cái mà thi sĩ đã gọi tên qua ngữ ngôn của thi ca. Qua đó thiết lập sợi dây tương liên con người với sự vật gần gũi ngày thường, con người gắn kết mình với mặt đất, và an cư trên mặt đất như là ở nhà.
Tập thơ Gửi VB khá mỏng, nhưng nó rất nền tảng. Như Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, không dày, nhưng đủ đầy trong suy nghiệm về thời gian, đau khổ và cái chết qua thứ ngôn ngữ "thỏa thuận" (như Heidegger buộc phải sử dụng ngôn ngữ siêu hình học để nói lên tư tưởng):
và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.
Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận.
Chỉ có thi sĩ đích thực mới có thể sử dụng thứ ngôn ngữ "thỏa thuận" như phương tiện thiện xảo mà không tổn hại đến ngôn ngữ như là ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đó, hắn - như một mục tử - bổn phận đứng canh giữ.
Inrasara
Sài Gòn, 7-8-2011
Gửi bởi Kitten84 ngày 16/08/2011 07:05
Hoàng Đăng Khoa
Bằng lối phê bình tri âm, trong lời giới thiệu thi phẩm Những kỷ niệm tưởng tượng [1], nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã gọi tên một cách khá chính xác thơ Trương Đăng Dung: thơ - thời - gian. Có thể nói, ám ảnh thời gian là nỗi ám ảnh xuyên trùm, chi phối kiến trúc nghệ thuật thế giới tập thơ này: "thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy" (Thành phố phía chân trời); "thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi" (Anh không thấy thời gian trôi)...
Cũng như các thi nhân hiện đại, Trương Đăng Dung quan niệm thời gian tuyến tính, mỗi khoảnh khắc qua đi là vĩnh viễn thuộc về quá khứ, con người bất khả cầm giữ, bất lực nhìn vạn vật phôi pha, cái chết nhỡn tiền: "sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được", "những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi" (Anh không thấy thời gian trôi); "nay hai màu tóc đan nhau/ ai biết được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu", "thời gian rơi/ qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ không giữ được đâu em/ anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ" (Anh không còn gì ngoài em); "răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa" (Có một thời); "tóc bà bạc xóa" (Ảo ảnh); "thôi em đừng khóc/ rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi/ một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy" (Ảo ảnh)... Để tô đậm tính chất vô thủy vô chung, vô hồi vô hạn của thời gian, tính chất nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người, Trương Đăng Dung đã sử dụng nhiều cách nói phiếm chỉ về thời gian, kiến tạo thứ thời gian "tưởng tượng": "có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/ (...) anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay/ (...) anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn năm nữa" (Có thể); "em chưa đến ngày chưa tỏa sáng/ sông mênh mang nỗi nhớ một con đò/ núi lặng lẽ đứng chờ bóng đổ/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/ (...) thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi// xao xuyến những mùa thu gió thổi" (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); "tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054/ tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời" (Những kỷ niệm tưởng tượng)... Tuy nhiên, như phát hiện khá thú vị của Đỗ Lai Thúy, nếu thời - gian - Thơ - Mới, dù chi phối con người một cách rốt ráo, vẫn cứ là thời - gian - khách - thể, thì thời - gian - thơ - Trương - Đăng - Dung còn là thứ thời gian đã được chủ - thể - hóa cao độ: "anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng..." (Anh không thấy thời gian trôi). Từ Thơ Mới đến thơ Trương Đăng Dung là một quá trình.
Thời gian trôi nhanh, "kiếp người ngắn ngủi". Sự thực nghiệt ngã đó con người không những không biết cách hóa giải mà còn vô minh tự lưu đày mình trong kiếp nạn trăm năm. Con người "chuẩn bị sống từ lúc sinh ra", "mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành", "nhàu nát mưu sinh", thứ gọi là "hạnh phúc trên đời" cơ hồ không tồn tại: "anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời/ sông trả lời anh sông chỉ biết trôi/ anh hỏi ngọn núi/ núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi/ anh hỏi con người/ người trả lời anh bằng nước mắt rơi!" (Ảo ảnh). Vũ trụ thì hồn nhiên, vô vi: "sông thanh thản kéo trời/ trôi theo mình lặng lẽ" (Trên đồi Vọng Cảnh), "sông vẫn bình yên hát khúc vô tư/ trời vẫn xanh như thế tự bao giờ" (Có thể), trong khi đó con người lại cuồng phí quỹ thời gian sống hạn hữu cho "trò chơi" bắn giết: "ở đâu đó đang gầm lên tiếng súng/ ở đâu đó bao người ngã xuống/ mắt nhắm rồi chưa một bữa ăn no" (Anh không còn gì ngoài em); "anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi trở về quê cũ/ và những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi" (Chân trời); "những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí/ trên nóc toa là trẻ nhỏ người già", "những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi" (Những kỷ niệm tưởng tượng); "những xác người được tìm thấy/ trong lớp đất bom vùi/ ...những đứa con chết/ mặt úp vào ngực mẹ" (Tôi lại nhìn thấy họ); "bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn" (Ghi chép hè 2009). "Thượng đế đã chết" (Nietzsche). "Chúa đã ra đi". Tội ác ngang nhiên, mặc nhiên hoành hành. Bể khổ đời cứ "dâng triều, sóng cồn lên sôi động". Con người quáng mù cuồng tín "trong những bình minh không có mặt trời/ trong những lâu đài chỉ có cánh dơi" (Ảo ảnh), "những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất" (Giấc mơ của Kafka). Mùa - tuyệt - diệt đang ở rất gần: "khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy/ voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông/ khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/ kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu" (Viết cho con); "em ở lại/ một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối" (Ảo ảnh); "đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường" (Những bức tường)...
Trong chuỗi ám ảnh về kiếp nạn cuộc người, Trương Đăng Dung đặc biệt ám ảnh về thân kiếp "những người đàn bà". Đó là những người vợ mập mọ chợ búa mưu sinh giữa lúc "những người đàn ông đang ngủ": "họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng/ đêm qua/ những con nhện biết rằng/ có người đã úp mặt vào tường/ úp mặt vào gối/ úp mặt vào bóng đêm nức nở" (Những người đàn bà); "những người vợ suốt đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng" (Tôi lại nhìn thấy họ); "người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày" (Ghi chép hè 2009). Đó là những nữ y tá "kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói/ không có bông, họ lấy áo choàng lau vội"; những "gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống" (Những kỷ niệm tưởng tượng). Bằng cảm hứng tụng ca, Trương Đăng Dung đã tạc dựng hình tượng những người phụ nữ tận thiện tận mỹ. Đó là những người mẹ với cao cả đức hy sinh: "người mẹ bị thương ruột lòi ra/ vẫn ôm con nhảy xuống hầm tranh nhau chỗ ngồi với rắn" (Những kỷ niệm tưởng tượng); "những người mẹ/ chết vẫn ôm con" (Tôi đã nhìn thấy họ). Đó là "Em" rạng rỡ, cao khiết, sáng trong: "em đã đến/ đẹp như ánh trăng" (Chân trời); "ánh sáng này từ mắt em/ ánh sáng này từ môi em/ ánh sáng này từ ngực em" (Ánh sáng này); "em tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ" (Có thể); "em đã đến thổi màu vào ngọn lửa" (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); "em nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em/ em nói mùa xuân anh chỉ thấy môi em" (Không đề)... Những câu thơ như "một trưa tháng Năm cua bò cả lên bờ/ gió Lào thổi vô hồi rát bỏng/ mẹ rũ tóc che người tôi khỏi nóng/ mái tóc người đen nhánh giữa trời cao" (Chúa đã ra đi) hay "anh không còn gì ngoài bàn tay em/ vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời" (Anh không còn gì ngoài em) có thể liệt vào hàng những câu thơ đẹp nhất, ám ảnh nhất viết về người phụ nữ. Người phụ nữ và vũ trụ tương đồng tầm vóc. Vọng ngân trong thơ Trương Đăng Dung âm - hưởng - nữ - quyền nhân văn nhân bản.
Những kỷ niệm tưởng tượng hiện diện một cái tôi nghệ sỹ "cô đơn như ngọn gió": "hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này/ tôi không còn nhiều bạn/ cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ" (Ghi chép hè 2009). Ta bắt gặp trong thi tập những thi liệu xuất hiện trở đi trở lại với tần số cao mang tính chất mã hóa. Bên cạnh "quạ" (mã hóa cho nỗi ám ảnh về mùa tuyệt diệt), ta còn gặp những biểu tượng khác như "chân trời" (7 lần), "mặt trời" (9 lần). "Chân trời", "mặt trời" mã hóa nỗi ám ảnh về những khát vọng, khao khát bất khả, bất thành. Cái tôi trữ tình khát cháy được thăng vượt những "quẩn quanh", những tủn mủn, vô nghĩa của thực tại để thực hiện lý tưởng, tìm gặp cái tuyệt mỹ, cái "vô biên và tuyệt đích" (từ dùng của Xuân Diệu), sở hữu ý nghĩa đích thực của cuộc tồn sinh ngắn ngủi: "khao khát một thứ gì nồng cháy như mặt trời" (Chân trời); "anh đi không một phút bình yên/ chân trời dấu những điều không đến" (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi). Nếu Trần Dần từng "khóc những chân trời không có người bay/ lại khóc những người bay không có chân trời" thì cái tôi trữ tình trong thơ Trương Đăng Dung khóc cho người - bay - không - đến - được - chân - trời bởi những quái đản vô hình bủa vây ngáng trở: "khi ta nghĩ đến những miền xa/ phía trước ta đã có những bức tường// những bức tường, những bức tường, những bức tường/ có mặt khắp nơi/ (...) những bức tường không thể phá" (Những bức tường).
Không thể cầm giữ thời gian, không thể kháng cự sức hủy diệt của thời gian, chỉ có cách thực tế nhất là bàn chân mình "để dấu muôn nơi" đóng con dấu hữu hạn đời mình lên càn khôn vô hạn, là "diệu huyền" hóa, vật chất hóa từng milimet hiện sinh:
"em đừng xếp lại chăn
em đừng chải lại tóc
em đừng tô lại môi
cứ để nguyên áo quần trên ghế
cứ để nguyên hiện trạng căn phòng
anh cần vật chứng
trước thời gian"
(Vật chứng)
là tận hiến:
"anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có tự ngàn đời
để cho em rạng rỡ"
(Anh chiếm chỗ bóng đêm)
và "nổi loạn": "ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn dựng ngược/ các sự vật muốn được gọi tên/ các sự việc muốn có đời sống mới" (Thỏa thuận).
Trình tự sắp xếp không phải ngẫu nhiên giữa các bài thơ làm nên kiến trúc chỉnh thể của thi tập, phát lộ một "ý nghĩa thỏa thuận": Con đường khả dĩ hóa giải bi kịch mà con người cần khai phóng trước hết là khai minh, phát quang những bản năng u tối. Và chỉ có tình - yêu - thương may ra đủ sức mạnh cứu rỗi.
Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng, cứ đầy lên trong tôi xác tín: "Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây" (Thạch Lam), cứ là mình, cứ để cho những trải nghiệm, chiêm ngẫm, "những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực" mình bốc cháy thành thi hứng, cứ đi tận cùng hoàn cảnh đương đại, cứ giữ trái tim mình "đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh" thời mình sống, cứ hồn nhiên viết như những gì mình thấy, mình cảm, thì thơ sẽ đủ sức thuyết phục. Nếu quan niệm yếu tính của thơ là tính tư tưởng thì yếu tính của nhà thơ phải là phông nền văn hóa, nói như Bảo Ninh, "tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của anh ta càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại mình" [2]. Thơ Trương Đăng Dung là thứ thơ có khả năng làm đầy nơi người đọc những cảm - giác - sống, tâm - tình - thời - đại. Cái gọi là cảm quan/tâm thức hậu hiện đại mà người ta nói nhiều những năm đầu thế kỷ XXI thì ra đã hiển lộ nơi những bài thơ được Trương Đăng Dung viết và công bố cách đây độ ba mươi năm về trước (Chúa đã ra đi, Tôi lại nhìn thấy họ, Những kỷ niệm tưởng tượng...). Thơ Trương Đăng Dung tươi mới. Và riêng khác.
Với tinh thần tôn trọng người đọc, bằng "ngôn từ kết nối/ phân chia" đạt đến độ cô nén, ám gợi: "người nghe tự hiểu/ người nói tự im", Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung "tự do tạo nghĩa" nơi những chủ thể đồng sáng tạo. Nếu "mỗi văn bản là một liên văn bản" (J. Kristeva) và "văn chương như là quá trình dụng điển" (Ngô Tự Lập) thì quá trình tiếp nhận thơ Trương Đăng Dung sẽ trở nên đặc biệt lý tưởng khi người đọc thực hiện cuộc kết nối những gì mình đọc với vốn "điển" có sẵn trong khung văn hóa của mình về Kinh Thánh, về triết học hiện sinh của Nietzsche, triết học ngôn ngữ của Martin Heidegger, triết học hiện tượng luận của Husserl... Thơ Trương Đăng Dung khơi vẫy những cuộc đối thoại tư tưởng, đối thoại văn hóa trong "hoàn cảnh hậu hiện đại", nơi/khi chân lý không có bản gốc, chỉ hiện tồn vô vàn "dị bản":
"thế giới bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận"
(Thỏa thuận)
5.7.2011
H.Đ.K
Anh không thấy thời gian trôi
thời gian ở trong máu, không lời
ẩn mình trong khóe mắt làn môi
trong dáng em đi nghiêng nghiêng
như đang viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi -T.Đ.D.
1. Bạn đọc trước đây đã từng quen với một Trương – Đăng – Dung – lý – luận, thì từ đây sẽ quen với một Trương – Đăng – Dung – thơ, những chiều kích khác nhau của một con người. Làm lý luận, Trương Đăng Dung thích thứ lý luận thuần túy, làm việc với các ý tưởng để sản sinh ra ý tưởng. Lý luận văn học của anh, vì thế, gần với triết học, hoặc đi ra từ triết học. Mà triết học với thi ca thì, như Aristote nói, là hai chị em ruột. Bởi vậy, nhìn ở cấp độ này, người ta không hề ngạc nhiên thấy nhà lý luận Trương Đăng Dung làm thơ.
2. Khác với nhiều người chỉ làm thơ khi đã về hưu, hoặc sớm hơn “nghỉ quản lý”, tức sau khi đã đạt được những viên mãn nào đó trên chính trường hoặc trong học thuật, mới làm thơ, theo cái truyền thống “trẻ Nho già Lão” (trẻ văn xuôi già thơ) của Đông Á, thì Trương Đăng Dung làm thơ khi còn là sinh viên đại học và liên tục cho đến ngày nay. Nhưng khoảng cách thời gian kể từ khi những bài thơ đầu tiên của anh được in ở báo Văn nghệ (1978) đến khi thơ anh xuất hiện lại trên tạp chí Sông Hương (2002) là hai mươi bốn năm. Bao năm qua, theo cách nói của Nietzsche, anh bị chi phối bởi “sức mạnh phản ứng”, nên dồn tâm trí nhiều vào việc đi tìm chân lý, dĩ nhiên với anh là chân lý học thuật. Và, lệ thường, một khi đã khẳng định chân lý này thì phải phủ nhận chân lý kia. Người ta phải đi vào khoa học, và với Trương Đăng Dung là khoa học văn học, là vì thế. Và cũng vì thế mà sức mạnh nguyên thủy nguyên khối trong con người bị phân chia, cuộc sống trở nên bị thiến hoạn. Dù là để tạo nên công trình khoa học đầy tính chiến đấu. Nhưng ngày càng, ở Trương Đăng Dung, “sức mạnh hoạt năng” vốn thuộc về nghệ thuật càng trở nên chiếm ưu thế. Thẩm mỹ cũng có xung đột, nhưng là thứ xung đột để ngỏ, không vì sự đúng sai mà vì sự khác biệt. Nghệ thuật, nhất là thơ, nhờ thế bảo toàn được sức mạnh uyên nguyên và sự đa dạng đời sống và thẩm mỹ.
3. Khoảng dăm năm trước đây, tôi, Trương Đăng Dung và Bửu Nam đi ăn tối ở Huế xưa và bàn phiếm về văn học. Nhân đà hứng chuyện, Bửu Nam nói sau này có lẽ Trương Đăng Dung “tồn tại” không phải nhờ những công trình lý luận của anh, mà bằng những bài thơ anh cho đăng tải gần đây. Lúc ấy, tôi thấy Trương Đăng Dung thoáng sững người, im lặng. Tôi vội ra hiệu cho Bửu Nam đừng nói tiếp và lảng sang chuyện khác. Nhưng gần đây, tại một quán cà phê ở Hà Nội, lời nhận xét này vô tình lại được thốt ra từ miệng một người bạn khác của Trương Đăng Dung. Lần này, tôi đã thấy anh mỉm cười vui vẻ. Hóa ra, nhận thức thơ, dù là thơ của mình, cũng là một quá trình. Thơ Trương Đăng Dung càng xuất hiện nhiều trên Sông Hương và tạp chí Thơ, càng được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao, thì càng khẳng định thêm điều đó ở anh. Và, giờ đây, tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng được trình làng. Sự kiện này không nói lên rằng con người thơ Trương Đăng Dung chiến thắng con người lý luận trong anh, mà chứng tỏ là trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, khi các “thần tượng” của Nietzsche hoặc các “đại tự sự” của Lyotard bị hoài nghi và sụp đổ, chân lý trở nên tương đối bởi sự đa nguyên và đa thể của nó, thì đây chính là thời của văn chương nghệ thuật. Trương Đăng Dung, tôi nghĩ, bao giờ cũng là người – của – hiện – tại, như tự ngôn của Picasso, “tôi không tiến đi đâu cả, tôi là hiện tại”.
4. Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là thơ – thời – gian. Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời gian truyền thống, thứ thời gian quay theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ, thời gian một mặt là sự thành công, là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết, một cái chết không thể đảo ngược, không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở thành một ám ảnh. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi – ám – ảnh – thời – gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời – gian – Thơ – Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, tồn tại và thời gian, tồn tại là thời gian. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ. Thơ Trương Đăng Dung hẳn vì thế mà có không khí hậu hiện đại.
5. Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc đời. Có điều, khác với thơ cổ điển, thông điệp thơ anh không phải là những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói, mà là những chấm phá phía chân trời vẫy gọi người đọc đến thám mã và đồng sáng tạo. Bởi lẽ mọi ý tưởng có sẵn, đúng cho tất cả mọi người đều là những ý tưởng đã hóa thạch, còn những tư tưởng sống thì đều đang vận động, dang dở và chưa hoàn kết. Tuy nhiên, làm một nhà thơ tư tưởng là rất khó. Nếu anh để cho một “sứ mệnh” nào đó lấn át ngôn ngữ, thì yếu điểm lập tức trở thành điểm yếu. Rất may là tư tưởng thơ Trương Đăng Dung không đông đặc mà trôi chảy với một khí lực mạnh mẽ vào từng câu chữ, khiến ngôn ngữ thoát khỏi được thân phận công cụ, để có đời sống tự thân, đôi khi tự phát sinh tư tưởng. Nhờ thế, trên đường đến với ngôn ngữ, mỗi bài thơ Trương Đăng Dung là một trạng – huống – ngôn – ngữ – nhân – sinh của anh. Và, qua anh, của người đọc.
Đỗ Lai Thúy
Kon tum, đêm 13 – 1 – 2011