Khoảng năm 1860, tình hình Đại Nam hết sức rối ren, triều đình Tự Đức chia làm hai phe chủ hoà và chủ chiến, hoàng tộc cũng chia lòng về vụ Hồng Bảo, loạn lạc khắp nơi, dân tình khốn khổ không những do giặc giã mà còn vì thiên tai, bão lụt.
Đất nước bị Tây dương đánh phá. Miên Thẩm đã vào tuổi 52, tóc râu nhuốm bạc, đang ôm nỗi buồn thế sự, về thăm cầu ngói Thanh Toàn, tức cảnh sinh tình viết bài tuyệt cú “瓦桥” (Ngoã kiều, tức Cầu ngói).
Cầu ngói Thanh Toàn bắc qua con hói, lấy nước sông Như Ý tưới ruộng làng Thanh Toàn. Hai bên cầu có mạn cầu với lan can như cặp ghế dài uốn theo thế cong của cầu để khách có thể ngồi nghỉ. Miên Thẩm ngồi tựa lưng vào lan can cầu, ngắm cảnh, ngâm thơ có tiếng rì rào của dòng nước dưới chân cầu đệm thơ, thi ông được một ngày thư giãn:
瓦桥桥下水潺潺 (Ngoã kiều kiều hạ thuỷ sàn sàn)
依檻哦詩尔日閒 (Ỷ hạm nga thi nhĩ nhật nhàn)
Dịch thơ: Cầu ngói, dưới cầu nước rì rào/Ngày nhàn ngồi tựa hát nghêu ngao.
Nhìn lại đời mình, bao năm vướng nợ đời chẳng trả bằng “kinh bang tế thế”, bằng vốn học của một nho sĩ thượng thừa… giờ đã bạc đầu cái khó quên không ngoài văn chương và cái khó tránh là khe suối, núi đồi. Nợ đời vì sao ở nơi khe nơi núi? Khe núi thường có ẩn sĩ, tìm đến thảo am không chỉ ngoạn cảnh mà để cùng tri kỷ đàm luận thi văn, thế sự:
老境难忘唯杆墨 (Lão cảnh nan vong duy hãn mặc)
世緣不厌是溪山 (Thế duyên bất yếm thị khê san)
Dịch thơ: Nợ đời chẳng chối từ khe núi/Bạc đầu không tránh ấy thi tao.
Nhìn dòng sông Như Ý uốn lượn qua những cánh đồng lúa xanh, gió nhè nhẹ chẳng thấy hình, gió trong, nhưng gió đang hiện hữu như đùa bỡn qua muôn trùng ngọn lúa, nằm ở hai bờ sông, thoải mái, tự do không ràng buộc, không bến bờ, gió và sông cùng nhau khiêu vũ, thiên nhiên là thế. Còn người đời thì ơn nghĩa rõ ràng. Một người đàn bà goá bỏ tiền của dựng cầu cho người tiện qua hói và có nơi cho người trú nắng khi mệt, tránh mưa khi lỡ đường, có nơi ngồi hóng gió ngắm trăng, hát hò vui vẻ…thì dân sở tại lập trang thờ ngay giữa gian cầu, xuân thu nhị kỳ tế lễ để tưởng niệm, nghĩa là mãi mãi hàm ơn:
淸風歗耍江千轉 (Thanh phong tiêu sái giang thiên chuyển)
寡妇烝嘗庙半間 (Quả phụ chưng thường miếu bán gian)
Dịch thơ: Miếu bà goá giữa cầu hương toả/Gió trong vui múa với sông dài.
Thực ra, cầu do bà Trần Thị Đạo, phu quân là Phan Lê Phiên vận động kinh phí xây dựng. Chồng bà từng là Khâm sai trong đoàn quân nam chinh Lê - Trịnh đánh chiếm Phú Xuân năm Giáp Ngọ [1774]. Sau khi cô gái tài hoa Trần Thị Đạo, theo đoàn sứ giả với Chánh sứ Nguyễn Hữu Chỉnh vào Quảng Nam phong tước cho Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ năm 1776, về lại Huế Nguyễn Hữu Chỉnh làm mai để bà kết hôn với Phan Trọng Phiên. Ông khâm sai họ Phan có chiếu vua hồi triều lại có lệnh ở lại làm tổng trấn, coi ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền. Trở thành phu nhân của đại quan quyền thế, bà xin chồng dựng cầu ngói ở quê nhà Thanh Toàn như Lai Viễn kiều ở phố Hội. Bà được vua Lê sắc phong năm 1776, do có công theo đoàn sứ giả phủ dụ Tây Sơn và có công xây dựng cầu ngói, dân làng Thanh Toàn được miễn sưu dịch. Làng nhớ ơn lập trang thờ bà và tôn trí ngay giữa cầu. Xuân thu nhị kỳ tế lễ không dứt. Còn dân làng Thanh Toàn thờ Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Lê Phiên ở miếu Đôi; ngôi miếu dựng ở đầu cầu phía bắc, hướng ra sông Như Ý. Khi Nguyễn Vương Phúc Ánh tái chiếm Phú Xuân, làng phải giấu tông tích hai vị Phan, Nguyễn để tiếp tục thờ phụng; tất nhiên tiếp tục thờ bà Trần Thị Đạo nhưng nói bà goá chồng bỏ của ra xây cầu. Lúc bấy giờ người đời, trong đó có Miên Thẩm, chỉ nghe truyền ức như thế nên thi ông mới viết bà Trần Thị Đạo là một bà goá có công dựng cầu, được thờ phụng.
Miên Thẩm rất cảm phục tấm lòng người đàn bà goá đối với dân, với nước. Còn mình là một hoàng tử, được giáo dưỡng đầy đủ, bụng một túi kinh luân nhưng không có điều kiện thi thố. Đất nước đã bị giặc ngoại xâm lăm le, thành Gia Định bị chiếm, dân tình điêu linh vì giặc giã, thiên tai. Ông thấy thẹn lòng, hổ thẹn với đám nho sĩ hậu sinh, học trò ông, đọc học tân thư, nhiệt thành yêu nước, muốn đánh Tây dương để bảo vệ non sông. Nhìn xuống mặt nước thấy mặt mày tàn tạ, soi lại lòng mình, ông “giật mình lại thương mình xót xa”:
何意济人慙弱輩 (Hà ý tế nhân tàm nhược bối)
临流無限愴衰顏 (Lâm lưu vô hạn sảng suy nhan)
Dịch thơ: Giúp người, lòng thẹn với đàn trẻ/Soi bóng mình ôi quá gầy hao.
Ngoã kiều là một bài tuyệt cú, một bài thơ gói trọn nỗi buồn u ẩn của thi ông Miên Thẩm, như niềm đau của Nguyễn Khuyến về sau đối với đất nước: “Sách vở ích gì cho buổi ấy/Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”. Một nho sĩ học vấn uyên thâm, một kẻ sĩ ưu thời mẫn thế, một thi ông yêu nước yêu dân thiết tha, nhưng đau đáu một nỗi niềm là phải “bó tay ngồi nhìn” thế cuộc như một kẻ vô tích sự. Hơn nữa, nhờ phần chú thích của thi ông khi viết “Ngoã kiều” mới biết được vị hoàng tử tước công như Miên Thẩm cũng chưa rõ lai lịch cầu ngói. Tại sao? Tại dân làng Thanh Toàn phải giấu thi ông về hành trạng phu nhân Trần Thị Đạo, có công dựng cầu nhưng kết hôn với đại quan Phan Trọng Phiên của Lê Trịnh. Họ Phan là người có công lớn trong việc làm họ Nguyễn Đàng Trong sụp đổ. Bài thơ vô tình phản ánh một giai đoạn lịch sử thời chấm dứt Trịnh Nguyễn phân tranh, kết thúc cuộc tranh bá đồ vương giữa Tây Sơn và họ Nguyễn Phú Xuân, nói lên “tấm lòng” của dân làng Thanh Toàn; dẫu chế độ đổi thay, “được làm vua thua làm giặc”, dân không cần phân biệt chính kiến của những nhân vật lịch sử, chỉ cần ai có lòng lo cho dân là họ âm thầm hương khói phụng thờ mãi mãi. Với triều Nguyễn thì Phan Trọng Phiên, Nguyễn Hữu Chỉnh là có tội, miếu Đôi đầu cầu không còn hương khói hai vị Phan, Nguyễn thì dân làng Thanh Toàn lại dựng miếu Đôi thứ hai ở cuối làng, gần làng Lang Xá Bàu để âm thầm thờ phụng hai vị ân nhân của làng.
Trần Viết Điền
[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]