Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Tùng Thiện Vương » Ngoã kiều
Tế xuyên mâu bửu phiệtCầu uốn mình cong cong, nối liền đôi bờ con hói chảy ngang làng Thanh Thuỷ, xã Thuỷ Thanh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nguyên xưa, làng mang tên Thanh Toàn, thuộc địa bàn huyện Phú Vang (tên cũ là Tự Vang), đến niên hiệu Minh Mệnh XXV (1834) mới chia tách qua huyện Hương Thuỷ. Làng được khai cảnh bởi 12 vị tộc trưởng gốc Thanh Hoá vào Thuận Hoá theo chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) hồi thế kỷ XVI. Một trong 12 tộc ấy có người cháu gái đời thứ 6 là Trần Thị Đạo kết hôn với Cần Chánh điện Đại học sĩ, bậc quan đầu triều dưới thời vua Lê Hiển Tông (trị vì từ năm 1740 đến năm 1786, lấy niên hiệu Cảnh Hưng). Thời đấy, việc giao thông trong làng bị cách trở vì con hói. Mỗi khi cần qua lại, dân chúng phải “luỵ” đò ngang, khá phiền phức. Thấy vậy, bà Trần Thị Đào bèn tự bỏ tiền riêng thuê thợ lành nghề về tạo dựng cây cầu này để dâng tặng quê hương. Việc thi công diễn ra vào năm Bính Thân 1776 niên hiệu Cảnh Hưng XXXVII. Cuối năm đó, biết được nghĩa cử cao đẹp kia, nhà vua ban sắc khen. Làng Thanh Thuỷ trân trọng giữ gìn văn bản này; và năm 1917, công sứ Pháp Richard Orban đã giới thiệu nội dung sắc chỉ của hoàng đế Cảnh Hưng trên Bulletin des amis du vieux Huế (BAVH: Tập san Đô thành hiếu cổ). Đây là bản dịch của Đặng Như Tùng, trích từ tập IV bộ sách Những người bạn cố đô Huế do NXB Thuận Hoá ấn hành năm 1998:
Thanh thuỷ thắng hồng lâu
Tạm dịch:
Qua sông là bè quý
Nghỉ mát ấy gác son
Chiếu chỉ:Vậy là có thể nói rằng cầu ngói Thanh Toàn là món quà đầy ý nghĩa của một nữ lưu đã cống hiến quốc dân đồng bào từ hơn 2 thế kỷ trước.
Bà Trần Thị Đạo, chánh quán làng Thanh Toàn, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong, là vợ của Khâm sai chủ sự Hoàng cung. Tổng chỉ huy bộ binh và thuỷ binh, Tổng đốc của ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền, Nhất trụ triều đình và tước Hầu.
Bà này làm phước đức còn hơn các bà trong Đại Nội. Đời bà được mọi người khen. Danh tiếng của bà không lời ca tụng nào xứng. Bà không ngần ngại vượt qua bao mệt nhọc để theo đuổi các cuộc hành trình cùng với đoàn của vua. Bà đã dũng cảm làm tròn ba nhiệm vụ của phái nữ. Bà còn để lại cho làng bà nhiều ơn huệ mà người ta cần lưu niệm.
Dân làng được miễn các dịch vụ như sau: miễn cung cấp nhân công để bảo tồn lăng tẩm vua chúa và đền miếu; miễn động viên lính thuỷ, lính bộ; miễn trưng dụng thuyền bè, tuyển nài cắt cỏ cho voi ngựa ăn, tiều phu, thợ mộc đóng thuyền. Nói tóm lại, họ không phải đóng góp gì về các dịch vụ bắt buộc nào cả. Họ chỉ lo cho chăm sóc cầu, con suối (hói?) chảy qua và các con đường dẫn đến.
Chiếu sắc này nhằm mục đích nêu lên khen ngợi của triều đình đối với người đã xây dựng nên cầu này và để khuyến khích người khác nên tỏ lòng rộng lượng như bà.
Làng này sẽ biết bao sung sướng và tự hào là xứ sở của người đàn bà đáng kính trọng cao cả!
Ngoã kiều, kiều hạ thuỷ sàn sàn,Trong nội san Hương Thuỷ - đất nước, con người số 1-1992, Nguyễn Thanh Thọ chuyển bài thơ sang thể lục bát:
Ý hạm nga thi nhĩ tự nhàn
Lão cảnh nan vong duy hãn mặc,
Thế duyên bất yếm thị khê san.
Thanh phong tiêu sái giang thuyên chuyển
Quả phụ chưng thường miếu bán gian
Hà ý tế nhân tâm nhược bối,
Lâm lưu vô hạn thảng suy nhan.
Dưới cầu nước chảy lững lờ,Từ ngày ra đời đến nay, cầu ngói Thanh Toàn đã trải qua lắm phen tu sửa, phục chế. Phần kiến trúc, do đó cũng thay đổi ít nhiều nếu đối chiếu nguyên trạng.
Tựa cầu thi khách ngâm thơ thư nhàn,
Bút nghiên đeo đẳng thân mòn,
Duyên đời chưa chán bởi còn nước non.
Hây hây gió thổi sông vờn,
Miếu thờ quả phụ chập chờn khói hương.
Sống riêng ta nghĩ thẹn thuồng,
Mặt soi dòng nước, buồn tuôn theo dòng.