Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Thơ tự do
Thời kỳ: Hiện đại

Đăng bởi Nguyễn Dũng vào 24/05/2010 00:50

I
Ông chín vuốt râu xốc lại quai bòng
Bòng của ông là thùng đạn đại liên cũ
Sẽ thành chiếc phao khi qua rạch băng sông
Chắc hẳn nhiều năm sau
Lại có ông già như thế
Giữa quây quần cháu con
Khoan thai vuốt râu khoan thai kể...

Còn ông Chín
Tới bây giờ như chưa phút rảnh rang
Dấu gậy chống hằn trong đêm bươn bả
Tai vẫn quen nghe pháo giặc “đề-pa”
Nghe rõ hơn nỗi mong ước bà con tiếng đất tiếng gà
Tiếng trẻ khóc thét căn nhà hoang vắng
Như cây trâm trụ giữa ngã ba làng
Những đìa Sấu, bưng Heo, gò Me, sông Cũ
Đã mọc rễ vào trí nhớ
Mỗi khi ông Chín xoè bàn tay
Thấy hiện dọc ngang miền quê kinh rạch
Thấy loé dưới nếp khăn đầu rìu đôi mắt xếch
Và tấm lưng trần người mở đất năm xưa.

II
...Cô giáo giao liên nhắc lại lần cuối cùng
“Các đồng chí chú ý
Mật hiệu đêm nay: “Bé Bảy”!

Chúng tôi mới từ xa về đây
Cái gì nghe cũng lạ
Bé Bảy
Chắc là tên cô giáo liên
Cố gái chắc xinh và hiền
Thành khẩu lệnh trang nghiêm đêm vượt lộ
Tôi sẽ gọi tên em khi súng nổi
Khi giặc kích lạc đường

Tôi sẽ gọi tên em mà nhận ra đồng đội
Trong bóng tối
Tôi sẽ gọi tên em
Bé Bảy

Chúng tôi mới từ xa về đây
Đêm kín đáo che gương mặt người em gái
Vùng đất phía nam
Em sẽ dẫn chúng tôi về nơi ấy
Các đồng chí chú ý
Mật hiệu đêm nay:
“Bé Bảy”

Nghe thanh thanh tiếng cô giao liên
Nhắc bằng giọng thật hiền

Chúng tôi nhớ rồi em
Dù có phút nào quên
Suốt đời chúng tôi xin nhớ!

III
Cái đêm anh Út dẫn tôi về nhà
Hai bờ kinh lập loè đom đóm
Luồng cá ăn lóc chóc dưới lục bình
Pháo sáng treo chập chờn ngoài lộ Bốn

Con đường ruột thoắt nhoè thoắt hiện
Người bí thư đi bằng trí nhớ của mình
Mỗi bước chân thầm đều bước trong cân nhắc
Để bất thần tôi đứng giữa nhà anh
Túp lều cất vội bên kinh
Sơ sài dăm ba tấm lá
Căn hầm tránh bom tránh pháo
nhà không đủ che mưa
Thuỷ chung còn ba ông táo
Đấu lưng giữ lửa đêm ngày

Trên nóc hầm dựng một trang thờ
Mùi nhang phảng phất
Trong hương thơm cơn gió vẫn đi về
Nơi đoàn tụ những ai còn ai mất
Anh Út thổi lửa bùng nồi cắm thêm nén nhang
Đất này đâu chỉ là đất ở
Khi người bí thư đêm đêm len lách về nơi đó
Cắm thêm nén nhang
Thổi bùng ngọn lửa
Nói một lời tha thiết với bà con
Nhận ít gạo từ tay người vợ
Ôi đất này đâu chỉ là đất ở
Anh Út gài bãi chết trước nhà mình
Chúng tôi lặng lẽ rút về địa hình
Sang quác một trời sao giữa trận càn của giặc.

IV
Đêm quân về
Bờ trâm bầu phăng phắc
Tiếng kêu tiếng cười nén chặt
Bóng người đan bóng cây

Đi vòng hố bom, lại hố bom
Đường ruột xuyên địa hình
Cây cầu bắc qua mương chông chênh
Có anh chàng nào trượt ngã
“Tháo đạn! Đứng dậy!”
Rúc rích cười. Tiếng xuỵt khẽ. Và đêm
Đêm trùm lên khoả lấp những dấu chân
Vuốt lại từng ngọn cỏ

Những nhát xẻng cồn cào nhịp thở
Những khuôn mặt nóng bừng sau vòm lá
Đẫm sương
Cây chết đứng lần đầu tiên ngã xuống
Đưa toàn thân áp chặt nắp hầm

Công sự choàng tay kết nối những vuông vườn
Đìa Đưng-Ba Hơn-Cả Mít
Gò Me-Mỹ Long-Lộ Đất
Thu rất gọn trong tầm nhìn trinh sát
Đêm quân về cắm giữa quê hương
...Đêm ấy nhà chú Ba chong dầu cạn lần cận lần
Bức bối quá. Chú cởi trần ngồi quạt muỗi
Ly rượu đăm đăm uống hoà không cạn nổi
Những gương mặt thương yêu cuộn về...

... Thằng Hai du kích nằm dưới gốc me kia
Năm bình định
Thằng Ba xã uỷ về bám đất bám dân
Tụi ác ôn bắn ngay giữa ruộng
Năm bình định.

Và thím Ba-người vợ tần tảo
Người mẹ bốn lần sinh

Ba lần dắt gà quanh mồ con giặc giết
Bữa đó, sau một loạt pháo bầy bắn từ Bình Đức
Chú Ba ôm thằng Út - lặng người...
Chúng con về đây, cha ơi!
Những thằng út mồ côi mẹ
Những thằng út mất anh
Chúng con về trong mắt cha khô cháy
Đêm bức bối là đêm kề cơn bão
Công sự con đào bới dưới gốc me kia
Ngay đám ruộng nhà ta
Hương lúa thơm những linh hồn trung nghĩa
Nỗi đau đớn tự hào nung đốt lòng cha
Bao đêm dài thức trắng
Mái tóc bạc và ly rượu trắng
Mặt trận sẽ bùng lên từ mỗi ngôi nhà
Từ mỗi góc vườn chúng con xả đạn
Trong ánh đuốc đỏ rần căm giận
Chính đây là trận đánh của đời cha!