西山詩和者三十餘人,再用前韻為謝

朱顏發過如春醅,
胸中梨棗初未栽。
丹砂未易掃白髮,
赤松卻欲參黃梅。
寒溪本自遠公社,
白蓮翠竹依崔嵬。
當時石泉照金像,
神光夜發如五臺。
飲泉鑑面得真意,
坐視萬物皆浮埃。
欲收暮景返田里,
遠泝江水窮離堆。
還朝豈獨羞老病,
自歎才盡傾空罍。
諸公渠渠若夏屋,
吞吐風月清隅隈。
我如廢井久不食,
古甃缺落生陰苔。
數詩往復相感發,
汲新除舊寒光開。
遙知二月春江闊,
雪浪倒卷雲峰摧。
石中無聲水亦靜,
云何解轉空山雷。
欲就諸公評此語,
要識憂喜何從來。
願求南宗一勺水,
往與屈賈湔餘哀。

 

Tây Sơn thi hoạ giả tam thập dư nhân, tái dụng tiền vận vi tạ

Chu nhan phát quá như xuân phôi,
Hung trung lê táo sơ vị tài.
Đan sa vị dị tảo bạch phát,
Xích tùng khước dục tham Hoàng Mai.
Hàn khê bản tự Viễn công xã,
bạch liên thuý trúc y thôi ngôi.
Đương thời thạch tuyền chiếu kim tượng,
Thần quang dạ phát như Ngũ Đài.
Ẩm tuyền giám diện đắc chân ý,
Toạ thị vạn vật giai phù ai.
Dục thâu mộ cảnh phản điền lý,
Viễn tố giang thuỷ cùng Ly Đôi.
Hoàn triều khởi độc tu lão bệnh,
Tự thán tài tận khuynh không lôi.
Chư công cừ cừ nhược hạ ốc,
Thôn thổ phong nguyệt thanh ngung ôi.
Ngã như phế tỉnh cửu bất thực,
Cổ trứu khuyết lạc sinh âm đài.
Số thi vãng phục tương cảm phát,
Cấp tân trừ cựu hàn quang khai.
Diêu tri nhị nguyệt xuân giang khoát,
Tuyết lãng đảo quyển vân phong tồi.
Thạch trung vô thanh thuỷ diệc tĩnh,
Vân hà giải chuyển không sơn lôi.
Dục tựu chư công bình thử ngữ,
Yếu thức ưu hỉ hà tùng lai.
Nguyện cầu Nam tông nhất chước thuỷ,
Vãng dữ Khuất Giả tiên dư ai.

 

Dịch nghĩa

Nét thanh xuân nở rộ như rượu nồng trinh nguyên chưa lọc,
Mà rừng táo ẩn dật đã chưa gieo trồng trong bụng.
Đan sa cũng chưa dễ gì quét sạch tóc bạc,
Kiếm xích tùng rồi lại muốn hỏi đạo với Hoàng Mai.
Dòng suối lạnh vẫn chỉ riêng nơi bạn bè của Tuệ Viễn,
Sen trắng, tre xanh, vẫn còn cao xa diệu vợi.
Lúc bấy giờ suối đá chiếu tượng vàng,
Ban đêm thần quang rực rỡ trên Ngũ Đài.
Uống nước suối, soi mặt, mà thấy được chân ý,
Ngồi coi vạn vật đều như bụi mờ.
Những dọn cảnh trời chiều trở về ruộng rẫy,
Rong xa cùng sông nước, đi suốt cùng rặng núi Ly Đôi.
Nay trở về triều, đâu chỉ thẹn vì tuổi già và yếu kém,
Mà sầu khô vì tài đã hết, đã dốc cạn chén không.
Các bạn phơi phới như căn nhà rộng,
Nuốt nhả đầy gió trăng sông núi thanh cao.
Còn tôi như giếng bỏ lâu không dùng,
Thành giếng gãy đổ, rêu mờ phủ kín.
Vài câu thơ qua lại gợi nhớ mà thôi,
Uống cái mới, trừ cái cũ, ánh sáng lạnh lẽo mở ra vắng vẻ.
Trời tháng hai, ngoài kia con nước mùa xuân lai láng,
Sóng cuồn cuộn đổ rầm như gió tuôn ào ạt.
Đá im hơi dòng nước lặng như tờ,
Làm sao nghe được tiếng sấm dậy trên rừng hoang?
Muốn gặp các bác bình việc đó,
Để biết cái vui buồn từ đâu mà lại.
Chỉ mong một giọt nước đạo Thiền đốn ngộ,
Cùng Khuất Nguyên, Giả Nghị, rửa sạch mọi u sầu.


Kinh đô Khai Phong, tháng sáu năm Nguyên Hựu thứ 2 (1087) đời Tống Triết Tông

Tự chú: “Vi Ứng Vật thi vân: Thuỷ tính bản vân tĩnh, Thạch trung cố vô thanh; Như hà lưỡng tương khích, Lôi chuyển không sơn kinh” 韋應物詩云:水性本雲靜,石中固無聲;如何兩相激,雷轉空山驚 (Thơ Vi Ứng Vật nói: Tính nước nói là tĩnh, Trong đá vốn không tiếng; Sao khi chúng chạm nhau, Sấm dậy vang núi vắng?)

Đông Pha sau khi bị đày ở Hoàng Châu trở về đã được vận thất phẩm phục, vào hầu triều, giữ chức Trung thư xá nhân. Tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 2 (1087), ông sang Hàn lâm viện làm Tri chế cáo. Tới tháng 6 thì làm bài này.

Nguyên ngày 29 tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ nhất (1086), Đông Pha bàn chuyện cũ với Đặng Thánh Cầu, là Hàn lâm viện thừa chỉ, trước làm Vũ Xương lệnh, thường chơi Hà Khê, Tây Sơn. Lúc Đông Pha bị biếm trích ở Hoàng Châu, đối ngạn với Vũ Xương, cũng từng chơi mấy chỗ đó. Thánh Cầu có làm bài minh khắc tại vách đá ở Vũ Xương. Nhân đó, ông làm bài thơ Vũ Xương Tây Sơn 武昌西山 để cho người khắc cạnh bài minh của Cầu, kể những ngày tháng ngao du ở Vũ Xương, trong thời kỳ bị biếm trích. Tới tháng 6 năm sau (1087), ông làm thêm bài này, tiếp vần bài trước.

Bản dịch nghĩa trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng (Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, 1973).